Chương Năm - Phần Hai

( THỨ BA 29/4/75 )

 

Bọn Mỹ không hiểu gì cả nên họ lên hết trên lầu 6 , vào phòng của họ và đóng cửa lại hết. Trên sân thượng, chiếc trực thăng cứ nằm chờ lệnh để cất cánh.

Thế là mọi người đều nhắm vào tôi. Người ta van xin tôi, mà tôi thì chẳng làm gì được cả để có thể cứu vãn họ. Người ta cho tôi xem vé máy bay có hiệu lực cách đây những 2 ngày mà cho tới nay không có một chiếc nào đáp xuống, người ta trưng ra cho tôi xem những chứng chỉ đủ loại, từ tiếng Anh, tiếng Pháp đến cả tiếng Việt Nam . Một người trạc 50 tuổi nói với tôi :

- “Ông ơi, tôi van ông, ông mang thằng con trai tôi đi giùm , còn chúng tôi thì không còn có gì quan trọng hết. Nhưng nó, nó cần phải tiếp tục đi học ở một nước tự do.

“Còn ông thì sao ?

Ông ta cúi đầu xuống nói nhỏ :

“Danh sách của chúng tôi không phải là thứ thiệt.

“Ông sợ gì ?

“Tôi là giáo sư. Tôi không hề dính dáng gì đến người Mỹ bao giờ.

Trong nhóm người nói trên, tôi thấy có đủ mọi hạng: những người đã làm giàu với bọn Mỹ này, những người đã có làm việc cho các sở Mỹ này, và có một số người khác thì đơn giản sợ bọn cộng sản người Hà Nội , những người của một hành tinh khác, có một dáng đi bồng bềnh, và những cử chỉ hành động có tính toán…..

Bà Lý thị Dưỡng đem cho một số nước cam và ly nước. Tôi hỏi riêng bà ta :

- “Tại sao bà lại không đi ? Chiếc trực thăng trên sân thượng nầy, tôi biết là nó sẳn sàng để đưa bà đi đó. Bà đã được ghi danh trên một danh sách đặc biệt, đúng không ? Bà đã tốt nghiệp ở một trường đại học lớn của Hoa Kỳ . Gia đình của bà một phần đã ở tại Gia nã Đại rồi, một số khác thì đang ở Pháp, hai trong số các con của bà hiện đang ở đó. Bà cũng đâu có cần gì tiền nữa đâu ? Bà nói rành tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nhật, bà lại có bằng tiến sĩ  về kinh tế và chánh trị. Sao vậy bà ?

Bà phá lên cười, có vẻ như hơi khó chịu:

“Ông sẽ làm gì khi được phỏng vấn, mà không có tôi ? Tôi đâu có bỏ ra đi khỏi quê hương của tôi như thế nầy được? Đi lẫn lộn trong số hành lý của bọn người nầy, bọn người đã nuốt những lời hứa tốt đẹp của họ để bỏ rơi chúng ta! Tôi không muốn trở thành một người “bị lưu dày”. Tôi còn thích làm việc bằng hai bàn tay của mình, mất tất cả thì mất nhưng vẫn còn ở lại ngay nhà của tôi, ở đây.

Tôi sợ những người sấp sửa đến đây, sợ phương pháp làm việc của họ. Cái lối sống của họ sẽ không là gì cả đối với tôi. Nhưng họ cũng là những người đồng chủng tộc với tôi, là người thuộc dân tộc của tôi. Tôi vẫn ở lại đây dù cho có bị lấy hết tài sản hay gia sản của mình. Có thể là họ còn cho tôi giữ cái ghế giáo sư của tôi, có thể là họ sẽ hiểu là họ cũng cần đến những  người như tôi, những người biết rành về những phương thức nhiêu khê của ngành tài chánh hiện đại. Biết đâu chừng !.”

Tôi bước ra khỏi biệt thự. Bên kia rào, có cả một số đông những người đang chờ, không có một tiếng la khóc nào. Thỉnh thoảng chỉ có một cử chỉ nói lên sự tức giận hay sự tuyệt vọng . Có một người đứng chỗ kia, bất động, đứng riêng cách biệt khỏi đám động. Người Việt Nam to con, tóc bạc trắng, đẹp lão, mặc sơ mi trắng có thắt cà vạt, một chiếc va ly nhỏ để cạnh chân. Ông nói chuyện với tôi bằng tiếng Pháp rất sành:

“Tôi đã 70 tuổi rồi, chỉ có một mình, nghèo, tứ cố vô thân… Nhưng tôi muốn đi !

“Tại sao ?

“Hồi thời Pháp thuộc, tôi là một người săn bắn có tiếng ở cái bán đảo nầy ông ạ. Và là chủ tịch các nhà săn bằn Đông Dương. Ông biết không , nhà săn bắn chỉ muốn sống tự do và những người sắp sửa tới đây không dung tha sự Tự Do !

“Ông có tên trong danh sách được bốc đi không ?

“Không . Tôi không có phương tiện, ông à. Phải trả đến hai hay ba ngàn mỹ kim lận. Tôi muốn sang Pháp, vì tất cả bạn bè của tôi đều ở bên Pháp. Tôi không biết mấy người Mỹ nầy.”

Và dưới ánh nắng nghiệt ngã nầy ông ta kể lại cho tôi nghe hàng loạt danh sách các thú rừng mà ông đã hạ được ở Boloven, cánh đồng rừng của người Mọi, ở đó người bạn của ông là Bảo Đại, một tay thiện xạ đã thực hiện được một thành quả săn bắn đẹp nhất trên thế giới :  257 con cọp và 180 con beo gấm..

Một cô gái trẻ lai Pháp  nói với tôi :

“Tôi muốn đi lắm nhưng phải đi với chồng tôi, người Việt Nam. Cả hai chúng tôi đều là giáo sư của Hội người Pháp. Người ta không có lo gì để cho cuộc di tản của chúng tôi  hết. Do vậy chúng tôi mới đến đây. Có thể người Mỹ sẽ nhân đạo hơn. Chúng tôi nghèo, chúng tôi không tìm đâu ra hằng nghìn mỹ kim mà người ta đã đòi chúng tôi phải trả cho họ, nhưng chúng tôi muốn được sống tự do, kể cả mấy đứa con của chúng tôi . Nếu ông biết ông lãnh sự Pháp, ông hãy trao cho ông ta lá thư nầy giùm. Ông ta đã từ chối không chịu tiếp chúng tôi” .

Hiện đã có hơn một trăm người đang tập trung trước ngôi biệt thự nầy với các túi vải hay các va ly xinh xắn của họ và các con quá khôn ngoan của họ với đôi mắt to kinh ngạc và với ngón tay cái đang ngậm trong miệng.

Tất cả những người đang trong cơn mộng du nầy đang như từ nóc nhà của họ rơi xuống, và họ đang dụi mắt, họ vẫn không hiểu gì hết. Các chiếc trực thăng vẫn không ngớt đáp xuống và cất cánh bay đi từ bên tòa đại sứ Hoa Kỳ . Trước cổng rào đó, người Mỹ và người Việt Nam đã bỏ những chiếc xe lộng lẩy của họ, mặc cho bọn côn đồ làm thịt, tháo gỡ manh mún, và khuân đi nào là nệm xe, nào là bánh xe, hay tất cả mọi thứ  nào xe không thể mang đi được.

Con số người lên đến hàng trăm, hàng nghìn, chen chúc nhau vào sát cổng rào sắt của tòa Đại sứ , được Thủy quân lục chiến Mỹ canh giữ rất nghiêm nhặt.

“ Họ đã hứa với chúng tôi là họ sẽ bốc chúng tôi đi, người đàn bà nầy đã vừa khóc vừa lập lại với tôi như vậy trong khi người ta đang đập bể cóp xe mẹt xê đét của bà… 

 Đối với người Pháp chúng tôi , lúc trước hồi 1954 khi rời khỏi Hà Nội thì lại có một tốc độ khác. Chúng tôi có thì giờ đến từ giã tất cả những người đã nằm xuống mà chúng tôi phải để lại trong những nấm mồ đã phần nào bị gió mùa tàn phá…

11 giờ sáng.

Chúng tôi lái xe chạy lên Tân Cảng. Trời càng ngày càng oi bức không chịu được .

Cả đoàn người vừa đàn ông, đàn bà và trẻ con, sình bùn dính đầy người, đang chen chúc bì bõm chui qua hàng rào kẽm gai, cố vượt qua một bãi sình lầy để vào những cái kho lớn nhất của người Mỹ mà chỉ trước đây 2 ngày những chiếc phi cơ vận tải khổng lồ đã còn cho đổ xuống một số hàng. Họ vác trên lưng nào là những bao bột gạo, thịt, những thùng nước trái cây, những hộp bơ, hộp đậu, quạt máy, máy xây trái cây, ván gổ, tôn, đủ mọi loại thượng vàng hạ cám bất cứ thứ nào lấy đi được là họ cố khuân vác đi . Có những món cần thiết mà cũng  có những món không bao giờ họ cần đến như lưới sắt hay máy điều hòa không khí. Có những bà cụ răng đen, ngồi xổm để bắt đầu rao bán những món hàng mà họ vừa cướp phá đó để lấy tiền, vốn đã không còn một chút giá trị nào nữa.

Ở một đồn cảnh sát , các cảnh sát viên không còn đeo một vũ khí nào, nhìn người ta cướp phá cho đến một lúc nào đó rồi một anh cảnh sát cũng nhảy xuống vũng bùn, nhập vào đám người đang hôi của đó … Các anh khác cũng chạy theo….

Một người lớn tuổi tỳ người trên chiếc xe đạp của ông ta, nói với tôi :

“Ông thấy có nhục không ông ? một nước lớn nhất trên thế giới như nước Hoa Kỳ lại đi bỏ rơi một nước nhỏ nhất thế giới, là Miền Nam Việt Nam, mà lãnh thổ bị thu hẹp lại hồi sáng nay chỉ còn là một mảnh đất: Sài Gòn . Tôi thật lấy làm xấu hổ cho họ.” 

Trên con đường cái lớn người ta vứt bừa bãi đủ loại thùng  và đủ mọi thứ mảnh vụn. Thình lình có những tiếng còi hụ thật to nổi lên, và nhiều tràng súng tự động bắn chỉ thiên:  quân lính Miền Nam Việt Nam đang trên đường rút về. Một dòng xe quá nhiều xe vận tải, lẫn lộn với các chiến xa, các xe cạp đất, xe ủi đất, xe thiết giáp, tất cả đều mở pha và hụ còi inh ỏi đang di chuyển nhanh về hướng Sài Gòn . Giữa đoàn xe lại có binh sĩ đi chân đất hoặc xe mô tô. Nhưng tất cả đều còn mang vũ khí cá nhân. Hơn phân nửa người trên xe là đàn bà và trẻ con. Một bà được chiếm một chỗ ngồi chểm chệ trên một chiếc xe ủi đất lớn, đang cười và kẹp một bó quần áo rách giữa hai đầu gối. Có một số xe đạp, xe gắn máy và những thùng thực phẩm được chất lẫn lộn trên các xe vận tải, và có một chiếc xe vận tải kia được thấy chở đầy heo…

Tại Phú Thọ, giữa Tân sơn Nhứt và Chợ Lớn có một số nhà đang cháy và nổ lốp bốp như các bao diêm quẹt. Trên lề đường, rơi rớt các tấm tôn nằm ngổn ngang bên cạnh các chiếc xe xích lô máy và 3 cái thây người chết: một người lính và 2 thường dân bị trúng đạn, nhưng không một ai buồn thu nhặt … Ngày hôm sau chắc hẳn là họ vẫn còn nằm đó. Ngọn lửa cháy lan đến các cột điện thoại mà không một ai để mà dập tắt… Tất cả khu nầy rồi sẽ cháy hết chăng ? Hai bên trái phải gì cũng có nhiều tràng súng liên thanh. Ai bắn và bắn ai đây ? Và luôn luôn các chiếc trực thăng vẫn bay lượn tên vòm trời Tân sơn Nhứt để nhả đạn xưống vòng rào sân bay.

Cướp phá, hôi của  lan tràn.. Ở đây người ta đang dọn đồ từ một ngôi nhà mà một người Mỹ vừa bỏ đi, ở chỗ kia một hội thánh Tin Lành, và xa hơn chút nữa là một bệnh viện… Tất cả ..không chừa món nào, từ các chậu rửa mặt đến các quạt trần, các hộc tủ bằng gỗ, giây điện và các máy xây trái cây….

Ở đây lại cũng có mấy anh cảnh sát chen lấn với mấy người hôi của. Có hai bà lớn tuổi đang khệ nệ khuân đi một chiếc tủ buýp phê trong khi đó có một chiếc xe vận tải chở đầy binh sĩ Dù chạy ngang qua, với đủ mọi loại súng nhưng toàn bắn chỉ thiên… Mất trật tự ư? Họ cóc cần, vì họ đang cần di chuyển nhanh đến những vị trí cuối cùng mà họ muốn cố phòng thủ. Trừ phi họ đừng đi về Vùng Châu Thổ sông Cửu Long, ở đó hiện đang còn có cả một quân đoàn đang trấn giữ và hình như đang có ý định chống giữ..     

 Không còn gì là trật tự, không còn gì là luật pháp, trong tình trạng vô chính phủ. Bọn cán binh cộng sản đang ngồi chống súng xuống đất để chờ sự tan rã của Sài Gòn.. Ngày mai nầy, người ta sẽ moi ruột nhau ngoài đường chỉ vì một thùng bia. Có nhiều người đang mơ tưởng, ước mong có được một trật tự của những người từ một hành tinh khác tới, với nụ cười trên môi nhưng mặt thì lạnh như tiền…… 

Bên cạnh khách sạn Continental, người ta đang hôi của từ trụ sở M.A.C.V.N., một cơ quan trung ương Viện trợ cho Miền Nam Việt Nam. Từ cửa sổ, tôi nhìn thấy 2 anh cảnh sát mặc quân phục đang kéo lê một tủ lớn dùng để đựng hồ sơ, ngay giữa đường Catinat (Tư Do)

29 tháng 4:

Ngày 29/4 nầy tôi đã chứng kiến được sự sụp đổ của phần còn lại của QLVNCH, và những cảnh thật sự của một sự vô vọng. Trong khi các chiếc trực thăng đang lo di tản người Mỹ và người Việt Nam, thì thành phố Sài Gòn được treo đầy cờ Pháp như một ngày lễ 14 tháng 7 vậy. Cũng đúng thôi. Thành phố nầy đã được các vị đô đốc toàn quyền Charner, Bonard và những người Pháp khác xây dựng lên từ một làng ở hai bờ sông mà đa số là dân chài người Campuchia và những người sống ngoài pháp luật. Người ta dán cờ tam tài ở trên kính xe, kẻ thì cờ nhỏ kẻ thì cờ thật to. Người ta sơn cờ tam tài trong cổng vào nhà. Không cần biết đó là người da trắng hay không da trắng, người Pháp hay không phải người Pháp, họ cứ dán và vẽ cờ tam tài tưng bừng khắp nơi. Người Việt Nam cũng làm như người của “Báo Chí Pháp”: tất cả các nhà báo, kể cả người Anh, đều phô bày huy hiệu “Báo Chí Pháp”.

Miền Nam Việt Nam : thủ đô Ba Lê, Tổng Thống Valéry Giscard d’Estaing, người đã  ủy quyền cho ông J.M. Mérillon, và ông Dương v Minh, Vũ văn Mẫu và Nguyễn văn Huyền đang chiếm vài văn phòng phụ trong dinh Tổng Thống, chờ lệnh của điện Élysée. Tôi có hơi thêm thắt đó, nhưng sự việc nó gần như vậy.

Và đây là các điểm tập trung của người Pháp, nếu có xảy ra chuyện không hay: Tòa Lãnh Sự Pháp, Bệnh viện Grall (Đồn Đất), Khách sạn Continental, Trường Nữ Trung học Marie Curie, Trường Nam Trung học Saint-Exupéry (Chasseloup Laubat).

Không thấy có Tòa Đại sứ Pháp. Nhất định là không rồi. Đó là chuyện giữa chúng mình, người ta muốn như vậy. Ở đó người ta đã có thực hiện sẵn những dự trữ lương thực và nước uống. Trong khi Tòa Đại sứ nầy đã trở thành niềm hy vọng cuối cùng, nơi tỵ nạn cuối cùng của hàng ngàn người đang bối rối, thì cửa sắt của nó được đóng kín lại: một thành trì mà mới đây người ta đã xây tường cao thêm lên, và giăng kẽm gai ngoài cửa sổ… Và ông Đại sứ thay vì đi ra ngoài để xem xét các điểm tập trung của người Pháp, có mặt ở nhiều nơi với các công dân Pháp để gây niềm tin cho họ, cùng ra mồ hôi ướt áo như họ… thì ông lại bó mình giới hạn trong nhiệm vụ của ông ta… vì nước Pháp không còn có một vai trò chánh trị nào nữa, vì chúng ta đã bị cái gọi là CPLTCHMN ru ngủ, một cái chính phủ mà sự hiện hữu chỉ thấy ngay ở tại Paris mà thôi. Ông tự chôn mình tỵ nạn đằng sau cái nghĩa vụ của mình. Trong khi ông Graham Martin thì chịu khó đi bộ một mình để tìm vật dụng cá nhân của ông ta, ở ngay dinh thự của ông ta với cơ nguy có thể bị bắn lúc nào không biết.

Cả Sài Gòn treo cờ tam tài của nước Pháp mà ông Đại sứ của chúng tôi  mới biết việc đó chỉ vì có người đã vừa nói cho ông ta nghe.

Còn phía bên tòa Lãnh Sự cũng không hơn gì. Ông Lãnh Sự thì ngủ luôn tại văn phòng của ông ta, ngay sau những chấn song sắt của văn phòng mình. Đó là ông Friang, Tùy Viên Thương Mại, người có phận sự tập trung tất cả người Pháp lại, bởi vì người có trách nhiệm lo việc nầy đã xách va ly đi mất rồi. Ông ta đã nói với nhân viên của mình rằng “Tôi đi ra ngoài đậu chiếc xe của tôi lại” . Và ông lên một chiếc trực thăng Hoa Kỳ , bỏ lại mọi người cho kế hoạch .

Do vậy đó là thời điểm mà ông Tổng Lãnh Sự Pháp, ông Lambroschini, người không hề ra khỏi sở làm hồi Tết Mậu Thân 1968, đã đi tìm các nhà báo dưới lằn đạn, đã sống với các thầy tu, các nhà trồng tỉa,và các người da trắng ở Dakao, biết tất cả mọi diễn tiến, trong khi ông cựu sinh viên hành chánh sáng giá của chúng ta thì hành động như một người mù. Đó cũng không phải lỗi của ông ta, Ông đã thi hành quá chu đáo những lệnh mà ông ta đã nhận được. Nhưng ở những nhà lãnh đạo sáng giá nầy thiếu sự rộng lượng quá, thiếu sự hăng say và hơi ấm của con người quá ! Nhưng dù sao thì ông Mérillon cũng đã quá thành công ở Jordanie, đến khi qua Á Châu thì ông bị nuốt chửng.

Chúng tôi đi lên sân bay Tân sơn Nhứt để xem thiệt hại ở đó ra sao. Căn cứ Không Quân nầy hồi sáng nay đã bị pháo binh 130 ly và rốc kết bắn phá dữ quá, và hiện vẫn còn một số các cột khói đen đang bốc cao lên trời: Các kho hàng, các kho dự trữ xăng nhớt còn cháy. Nhưng các đường bay hình như không thiệt hại bao nhiêu. Nhưng việc di tản người đã không thực hiện được . Có nhiều đoàn xe dài thường thượt, nhất là các xe Mẹt xê đét màu đen với loại khách”sang trọng” đang chờ đợi trong xe. Và các bà với nón vành to trên đầu, đang chạy tới chạy lui, dắt theo trẻ con đang khóc lóc  vì bọn chúng không hiểu biết gì cả. Đường sá thì bị ngựa sắt đầy kẽm gai với các anh cảnh sát viên khó tính chận cứng. Đặc biệt có một cảnh sát viên có lẽ tinh thần bị căng thẳng, móc súng ra đe dọa chúng tôi . Anh ta không muốn chúng tôi quay phim anh ta. Vài phút sau anh lên xe và cùng với cả toán chạy biến đi mất và phi trường không còn người canh gác nữa.

Hết rồi.Tất cả các xe đều từ từ quay đầu lại. Cái bẫy cộng sản đang sập xuống với mấy ngàn người  Việt Nam và người Tàu. Muốn ra khỏi Sài Gòn , chỉ còn có các trực thăng, hoặc tàu thuyền, nhưng chắc chắn là giá rất là đắt.

Trong thành phố đang có sự xuất hiện của một nhóm người trẻ, với dáng điệu lo âu, mặc quần áo đen, mang súng M.16 và cạt bin Mỹ. Trông họ rất giống những người chạy xe gắn máy chyên cướp giật ví đeo vai và máy chụp hình. Hình như họ là lính bảo an hay dân vệ gì đó, đang phụ trách gìn giữ trật tự và an ninh. Nhưng họ là ai ? Từ đâu ra ? Gìn giữ trật tự hay tìm cách gây mất trật tự đây ?

Chánh Phủ mới của ông Minh thất bại hoàn toàn, không bắt liên lạc được với CPLTCHMN . Ban Liên Hợp Quân Sự của Bắc Việt và CPLTCHMN đóng ở trại Davis trong phi trường Tân sơn Nhứt 2 năm nay theo qui định của Hiệp Định Ba Lê, vẫn còn ở đó, trong những dãy nhà cây, có hàng rào kẻm gai bao chung quanh. Họ vẫn còn ở đó, với quân số là 250 sĩ quan và binh sĩ Việt Cộng và 45 người Bắc Việt . Ai là người Nam, ai là người Bắc? Thật là rất khó mà biết được . Ai là người chỉ huy họ ? Có phải là đại tá Võ đông Giang, mà tên thật là gì cũng không ai biết được , một con người cao và gầy thường giữ vai trò phát ngôn viên với phái đoàn báo chí, và sẽ trở thành một người của Miền Nam ? Hay là người kia là tướng Hoàng anh Tuấn, người sẽ trở thành một người của Miền Bắc ? Cũng không phải người nào hết, mà là tướng Trần văn Trà, vì trước hết ông là một người chỉ huy cộng sản, trong lịch sử.

Chung quanh họ là những cán binh của Miền Nam và họ sống như bị vây hãm trong các dãy nhà bằng gỗ có hầm trú ẩn bằng bê tông. Đó là tất cả những gì còn lại của cái gọi là Hiệp Định Ba Lê 1973.

Một phái đoàn do ông Nguyễn văn Huyền, người công giáo, Phó Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa, với nhiệm vụ thương thuyết.. đến trước hàng rào kẻm gai của trại Davis. Cán bộ cộng sản không tiếp, Vì họ không còn muốn bàn cãi gì nữa: Họ chỉ nhận một sự đầu hàng vô điều kiện mà thôi.   

Ông Graham Martin, Đại sứ Hoa Kỳ sẽ đi sang người đồng nghiệp láng giềng ở tòa Đại sứ Pháp bên cạnh. Để chánh thức từ giã ông nầy. Và để tặng cho ông nầy chiếc xe Ca đi lắc màu đen  lộng lẫy của mình, một món quà mà ông bạn nầy phải nhận thôi. Nhưng ông thì phải ra đi, ngày mai lúc 3:30 sáng, sau khi chứng kiến thảm họa, một cách bất lực:  thảm họa chánh trị của chính ông mà cũng là  thảm họa của Miền Nam Việt Nam .

Rồi cũng đến lượt ông Nguyễn Cao Kỳ, người muốn chiến đấu đến cùng, ra đi trên chiếc trực thăng riêng của ông. Cũng bực tức như ông Thiệu, nhưng ít nhất ông nầy cũng còn có thì giờ sấp xếp hành trang.

Chúng tôi lại trở về khách sạn Continental. Đường sá có vẻ không được an ổn lắm.  Đó đây vũ khí vứt đầy đường  và cảnh sát thì không còn thấy đâu nữa. Không còn người nào tôn trọng giờ giấc thiết quân luật nữa. Người ta vẫn tiếp tục “sơi tái” trụ sở M.A.G.V.N. Cả đàn ông đàn bà trẻ con, cảnh sát binh sĩ, không còn phân biệt ai là ai nữa. Họ chuyên chở hàng đi bằng xe Jeep , bằng xe xích lô, hay bằng các thùng đẩy có bánh xe..

Có những toán binh sĩ ăn mặc rách rưới, tả tơi đi qua, mắt hết thần, thường đi chân đất. Dân chúng kéo đến đập tường và cổng của Tòa Đại sứ Hoa Kỳ, mắt đỏ hoe vì quá mệt mỏi , trao hàng bó mỹ kim cho bọn lính Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ còn đang canh gác tại đó để xin họ ít nhất cũng cho được bước qua hàng rào của tòa Đại sứ . Nhưng bọn lính gác phải dùng đến báng súng để xua đuổi họ đi, đôi khi còn phải đập vào tay họ đang bám chặt vào cổng sắt không buông.

Có nhiều người khác thì cố tìm cách vào Tòa Đại sứ Pháp, nhưng rồi họ cũng bị toán lính sen đầm to lớn liệng họ ra ngoài, có lúc còn phải giữ vũ khí của họ lại vì họ là lính.

Về đêm thì chỉ còn có một nhóm người Mỹ quanh ông Đại sứ Graham Martin, chính xác hơn là 125 người để lo về an ninh, đang lần lượt bước lên các tầng lầu trên cùng , còn bọn Thủy quân lục chiến thì trấn giữ nóc nhà, súng cầm tay trong tư thế sẵn sàng nhả đạn.  

Chỉ còn lại những người Việt Nam bị bỏ quên, vẫn đứng tại chỗ giữa các va ly hay ba lô hành lý của họ, trong số nầy có những người đã  được hứa cho bốc đi và cũng có những người còn tin tưởng là sẽ được đi với những giấy tờ giả mà họ đã làm.

Có một người dùng một cây xà beng chọc thẳng vào thùng xăng của chiếc xe của một ai đó đã bỏ lại, và xăng chảy ra, người đó hứng xăng vào một cái túi plát tíc lớn. Xăng chắc chắn sẽ khan hiếm. Tôi nghĩ là chúng ta không có xăng dự trữ. Và anh nầy đã biết lo xa tính trước rồi.

Các trực thăng khổng lồ (chinook) của Đệ Thất Hạm Đội vẫn tiếp tục bay lượn rà thấp trên thành phố , mang theo đầy người .Khi trời sụp tối, họ cho bật đèn lên trong lúc các bãi bốc thì đèn đánh dấu cũng được bật lên và các ngọn đèn pha chiếu sáng để chỉ rõ bãi đáp. Do đó trên không phận ta thấy các điểm sáng di động và ta nghe được tiếng phành phạch liên hồi của các cánh quạt trực thăng.

Trên một sân thượng của một nhà trước mặt chúng tôi có những người Việt Nam  đang đốt một đống lửa với tất cả những gì họ vớ được : giấy, bàn ghế, thùng xăng. Họ sẽ nuôi dưỡng đám lửa nầy suốt đêm, hy vọng rằng một chiếc trực thăng nào đó thấy được dấu hiệu tuyệt vọng của họ sẽ đến cứu họ. Nhưng tôi nghiệp, đến sáng hôm sau lửa đã tắt ngúm mà không có một ai đến đón họ cả.

Bà Lý thị Dưỡng của chúng tôi đến với người con trai và người vú em của bà, ngao ngán. Người ta đã cướp phá hết nhà của bà. Và đó là những người mà bà đã mướn để giữ nhà giùm bà. Con của bà cũng đã bị các quân nhân bắt giữ làm con tin và đòi tiền chuộc. Bà đã giốc hết tiền túi còn lại của bà, gần một triệu đồng để vứt vào mặt họ mới bắt được đứa con về.

Khi mà người Mỹ, người Anh hay bất cứ anh “mũi lõ” nào (nguyên tác “long nez”) vửa rời bỏ căn nhà của mình thì người hàng xóm, vốn đang rình chờ cho họ vừa ra khỏi nhà, là họ leo qua rào, phá cửa và khuân đi hết tất cả những gì họ nắm được .

Điện đã bị cúp, và chúng tôi ăn tối bằng nến. Các anh bồi bàn yên lặng dọn ăn còn đại bác và các tràng súng liên thanh thì càng ngày nghe càng gần. Có một viên đạn lạc lõng rơi vào đĩa của tôi. Anh Coutard, một chuyên viên về vũ khí, cầm viên đạn lên xem và cuối cùng anh nói: “M.16”.  

Chúng tôi vừa được cho biết về những cảnh não lòng đã xảy ra tại bến tàu. Hằng ngàn người đã tràn xuống các chiếc tàu chở hàng, tàu lưới cá, các chiếc ghe.. nghĩa là xuống tất cả những phương tiện nào nổi trên mặt nước. Nhưng mà con sông đã bị gài mìn. Có nhiều chiếc qua đươc , nhiều chiếc không qua được và có một số khác bị nổ tung.

Các phi công lái trực thăng người Việt Nam tự tổ chức lấy những cuộc di tản. Họ đến tìm bốc người trên một nóc nhà nào đó. Vào một giờ đã được ấn định trước tất cả gia đình ngồi chờ trong phòng của một căn nhà, yên lặng, màn cửa sổ đóng kín xuống. Họ lên quá đông trên trực thăng đến đổi có một chiếc bị rơi trong Chợ Lớn vỉ quá tải về người cũng như về hành lý. Chiếc trực thăng đó chỉ có thể chở được chừng một phần ba từng ấy người và từng ấy hành lý mà thôi.

Các chiếc trực thăng nầy đến quá nhiều trên chiến hạm của đệ Thất Hạm Đội. Họ quá vội vả khi đáp xuống tàu sân bay và khi hành khách xuống hết thì các chiếc trực thăng được hất ngay xuống biển.

Gia đình  các phi công của phản lực cơ đươc ưu tiên di tản trước và các phi công của chiến đấu cơ F.5 thì đáp phi cơ xuống Hạm Đội 7 sau đó, hoặc ở vịnh Subic hoặc ở Phi luật Tân. 75 chiếc khác thì đáp xuống căn cứ Không Quân Utapao,nằm về phía Nam thủ đô Băngcốc (Thái Lan) mang theo 2000 người. Không gì hơn là ta phải tự lo cho mình là hay hơn cả.

Từ ngày 14 tháng 4 Hoa Kỳ đã bắt đầu công tác di tản nhân viên của họ và người Việt Nam nào đã có tên trong những danh sách của họ. Họ đã thiết lập một cầu không vận giữa Sài Gòn với căn cứ Clark bên Phi luật Tân, và đảo Guam bằng các phi cơ vận tải C.141 Starlifter và C.130 Hercules. Con số cần phải di tản là 130.000 người .Chỉ trong vòng một tuần lễ, đã có 30.000 người đã được di tản.

Đứng trước tình hình quá nguy ngập, người ta đã tăng tốc độ quay vòng của các phi cơ. Từ 7500 người Mỹ, nay chỉ còn khoản 1.000, ngày thứ bảy 26 tháng 4 chỉ còn có nhân viên nào xét thấy cần thiết cho một số công tác phá hủy hay bảo vệ phi cơ lên xuống mà thôi. Hầu hết tất cả các kho đạn dược và xăng dầu đều sẽ được phá hủy bằng chất nổ.

28.000 người Việt Nam đã được di tản trong 6 ngày. Còn lại khoảng 100.000 người nữa. Nhịp độ di tản tiếp tục trong ngày chúa nhật và thứ hai cho đến lúc phi trường bị pháo binh cộng sản nã vào chiều ngày thứ hai. Các phi cơ C.130 được lệnh ngưng đáp xuống phi trường . Nhưng đến 21 giờ, người ta được biết là phi trường vẫn còn được xử dụng vì cộng sản đã ngưng pháo kích.

Tuy nhiên vì áp lực của các cố vấn nên Tổng Thống Ford quyết định mở ngay cuộc hành quân “Option 4”, tức là hành quân trực thăng vận, di tản nhanh với năng suất chuyên chở gấp đôi các phi cơ vận tải. Lệnh hành quân đươc ban hành hồi 22 giờ 51 phút. Phi trường Tân sơn Nhứt lại sẽ được tiếp tục xử dụng tiếp theo sau các cuộc nói chuyện bí mật giữa cộng sản và Hoa Kỳ . Ai là trung gian ? Tôi không biết là ai. Cuộc di tản phần lớn được thực hiện qua phi trường và được tiếp tục cho đến hết đêm, cho tới lúc cộng sản bắn vài quả rốc kết vào phi trường để báo hiệu là đã hết thời hạn ngưng bắn.

Đài phát thanh Hoa Kỳ cho phổ biến câu mật mã “ Nhiệt độ đã lên đến 195 độ F.” tiếp theo sau một bài hát cổ của Hoa Kỳ là bài “Chúng tôi muốn có một Giáng Sinh Trắng” . Chính câu sau cùng của bài hát nầy có hai chữ “Ngọn gió thường xuyên” (nguyên tác :Fréquent wind). Và chúng tôi chứng kiến được “ngọn gió” nầy. Từ trên cao,  các khu trục chiến đấu cơ loại Con Ma (phantom) bay cao thật cao , sẳn sàng can thiệp nếu cộng sản không tôn trọng lệnh ngừng bắn.

Trường hợp bẻ gãy sự thỏa hiệp ngừng bắn đó sẽ gây nên một thảm họa và một cuộc leo thang mới nữa. Các hỏa tiển SAM-2 và SAM-7 của cộng sản sẽ ngăn chặn tất cả không quân xuất phát từ Hạm Đội VII không cho thực hiện được các sự trả đủa.

Và chúng tôi đang ở dưới đất cùng 3 triệu dân chúng Sài Gòn cộng với 1 triệu người dân tản cư đang được dồn cứng ở các ngõ vào thành phố. (1)

Các sĩ quan người Ba Lan thuộc Ban Giám Sát Ngừng Bắn của Hiệp Định Ba Lê đã rời khỏi khách sạn Majestic sau khi khách sạn nầy bị trúng 1 quả đạn pháo 130 ly cộng sản để sang hết qua khách sạn Continental và Astor. Khi họ vừa đậu xe trước khách sạn thì cảnh sát ập đến. Họ dùng báng súng đập các cửa kính và bắt đầu hôi của. Có nhiều cảnh sát khác đến bằng xe Jeep.  Họ bắt bọn Ba Lan chăng ? Không . Họ tiếp tay với đồng nghiệp và chia phần chiến lợi phẩm.Trong khi mấy người Ba Lan chỉ biết đứng nhìn, không can thiệp . Mà cũng thấy không được yên tâm lắm.

Lúc nầy có tiếng súng bắn khắp nơi.

Cái đêm cuối cùng của thành phố Sài Gòn là một đêm dầy hỗn loạn. Chung quanh thành phố thì các kho xăng đang cháy, các kho đạn nổ. Còn các trực thăng thì trong lúc tìm bãi đáp để hạ cánh xuống các nóc nhà , họ bay lượn thấp, bật sáng các đèn pha như đôi mắt côn trùng khổng lồ đang tìm mồi vậy

Ở tại Dinh Độc Lập, tướng Minh đang nỗ lực tìm kiếm một cách vô hy vọng để bắt liên lạc với cộng sản vốn không còn muốn dùng ông như con bài chánh trị nữa.

Có một vài chiếc xe cứu thương đi qua, hụ còi inh ỏi. Thình lình pháo cộng sản bắt đầu nổ rền. Không , không phải bão tố gì đâu, một cơn bão nhiệt đới với sấm sét và mưa như trút về đêm ờ đây. 

Các anh hôi của cuối cùng dọn đồ lên xe xích lô và chạy đi trong mưa gió.

Các anh tù chánh trị được thả ra và những anh tù thường phạm đã lợi dụng cơ hội nầy  để trốn luôn. Họ chỉ cần cúi xuống lượm mỗi người một cây súng thôi là bọn vô lại nầy cũng coi như đã được võ trang hùng hậu rồi ! 

250.000 binh sĩ đang tháo chạy. Có từ 700.000 đến 800.000 dân tản cư đang muốn tràn vào thành phố, một số đông đạo tặc đang sẵn sàng biến thành  phố thành một địa ngục với những băng đảng buôn lậu và đào ngũ, cướp bóc và ma túy… với những tay súng của lực lượng đặc biệt đang đi tìm mục tiêu…

Khách sạn có nguy cơ bị tấn công không biết lúc nào.  Tôi mở tủ sắt lấy ra 5.000 mỹ kim và mấy ngàn quan Pháp mà tôi đã gởi vào trong đó. Khách sạn có thể tránh được việc cướp phá, nhưng số tiền nầy tôi không thể dấu trong phòng tôi được.

Tôi nhìn thấy các anh binh sĩ mà tôi đã gặp mặt cách đây vài giờ trên xa lộ, lúc họ đang rút lui về Sài Gòn với toàn bộ vũ khí của họ. Lúc bấy giờ họ không có bộ mặt thiểu não của người lính thất trận. Họ cười đùa với tôi, làm nhiều dấu hiệu với tôi, họ giúp tôi trèo lên xe của họ và tôi đã cùng đi với họ trong chuyến xe tháo chạy về một nơi vô định….

Nhưng kìa là một chiếc xe cứu thương. Cái mà tôi nhìn thấy bên trong thật là kinh khủng. Toàn những thân người bị cán nhẹp, tay chân gãy nát, máu me be bét, hình như còn sống và đang rên rỉ. Chiếc xe bị kẹt trong đoàn, không bác sĩ mà cũng không y tá…

Và xe cứ chạy đi trong khi tiếng đại bác của cộng sản đang nổ càng ngày càng gần và trên đầu chúng tôi là các chiếc trực thăng.

Tôi có cảm tưởng như đang sống trong cơn ác mộng mà ở đó những chuyện kỳ quái lại trộn lẫn với đau thương. Các anh binh sĩ nầy thì cười đùa còn các anh binh sĩ kia thì đang đi vào cõi chết. Cấp chỉ huy của họ (những người còn lại) thì nói với tôi là họ nhận được lệnh đến những vị trí đã không còn nữa, Trừ phi người ta không có quyết định vị trí  phòng thủ là cái nhà thờ bằng gạch đỏ ở ngay đầu đường Tự Do . 

Chỉ trong vài giờ thôi, bộ mặt của những anh binh sĩ nầy đã thay đổi hẳn. Họ vừa mới nhận ra rằng họ là người thất trận. Tức giận vì bị bỏ quên, bị cấp chỉ huy bỏ rơi, họ bắn nhiều tràng súng từ các nóc nhà lên các trực thăng nào bay ngang qua. Có tiếng gầm rú của các chiến đấu cơ Con Ma vừa bay qua.

Bài hát “Chúng tôi muốn có một Giáng Sinh Trắng” vừa hết với những nốt nhạc cuối cùng.

Không còn một cái lệnh lạc nào nữa, không còn luật lệ nào nữa , và cũng không  còn chính phủ nào nữa. Bọn cộng sản đang chờ đợi. Bọn chúng muốn trừng phạt Sài Gòn .

Thành phố Sài Gòn không có hấp hối. Sài Gòn đã hết chất sống rồi, nó đang vỡ ra trong sự thối nát, trong các đám cháy, cướp bóc và hôi của. Những  người may mắn đã trốn chạy theo các chiếc trực thăng của Hoa Kỳ rồi, các người khác thì chui rút kín. Còn những người đã trở lại phi trường Tân sơn Nhứt một cách thảm hại , những người bị lãng quên, không quen biết một ai ở đây thì đang hứng lấy rốc kết và pháo 130 ly của cộng sản. Và chúng tôi , những người chứng bất lực, vốn là những người đã từng thương mến thành phố Sài Gòn , vẫn không làm được gì cho thành phố thân yêu nầy. Sài Gòn bắt đầu chuộc tội về những cái tráng lệ huy hoàng của mình, những vô trật tự của mình, sự đam mê  lợi lạc của mình, với các quán rượu đầy gái làng chơi của mình, các sòng bạc của mình, các lễ hội tưng bừng và cuồng loạn của mình, các hành động điên rồ của mình. Và cũng vì cái tính chất độc lập tốt đẹp nầy đôi khi biến cô gái điếm thành một bà hoàng….      

Vì Sài Gòn đã bị tuyên án tử hình !

Chúng tôi vừa nghe biết đây thôi. Đài phát thanh của cái CPLTCHMN bắt nghe được từ Singapore đã tuyên bố là từ đây thành phố Sài Gòn sẽ mang tên mới là thành phố Hồ chí Minh .

Một cái tên chết. Không thể gán cho những thành phố được.

Các lằn đạn chiếu sáng, các rốc kết sáng ngời, cùng các đám cháy làm cho bầu trời đỏ rực lên. Sau cánh cổng sắt đóng kín của khách sạn, chúng tôi là một vài người duy nhất chứng kiến giờ phút cuối cùng nầy, giật nẩy mình vì một tràng súng vừa nổ, rất gần.

Tướng Dương văn Minh có gởi một phái đoàn thứ hai tới trại Davis ở phi trường. Phái đoàn thứ nhất đã không được tiếp, phái đoàn thứ hai lại đơn giản mất dạng, dưới cơn mưa pháo của cộng sản . Sáng hôm sau người ta mới được biết là vì “nhân đạo” họ được đưa vào trại Davis, qua đêm tại đó trong một hầm trú ẩn bên cạnh các thành viên của 2 phái đoàn cộng sản Bắc Việt và cái gọi là CPLTCHMN trong lúc các quả rốc kết từ bên ngoài cứ tiếp tục rơi xuống căn cứ Tân sơn Nhứt gây nhiều đám cháy và nhiều thiệt hại vật chất đáng kể sau những tiếng nổ kinh hồn…. Nhưng người ta đã từ chối không có một đáp ứng nào về những đề nghị của phái đoàn.

Tôi không có một ý định nào về lại phòng của tôi. Các quả đạn pháo 130 ly đã ngừng nổ. các quả rốc kết cũng vậy. Nhưng ô kìa, cậu bé trần truồng như nhộng kia làm gì mà tắm trong cái dường mương đầy bùn và nhớp nhúa dọc theo lề đường thế kia ? và cuối cùng lại còn trở về nhập bọn với những đứa trẻ khác đang nằm dài dọc theo bờ tường của khách sạn, như một bầy mèo hoang vậy ?

 CHÚ THÍCH :

(1) Theo Hoa Kỳ thì 120.000 người đã được di tản từ ngày 14 tháng 4. Tuy nhiên theo ước tính của tôi thì còn lại gần một phần tư hay hơn một nửa đang bị bỏ lại. Đặc biệt là những người lẽ ra phải được di tản chiều ngày thứ ba bằng phi cơ vận tải ở phi trường.

 

(Xem tiếp CHƯƠNG SÁU : Thứ Tư 30/4/1975)


   Trở về trang Mục Lục        Chương 6 - phần 1

1