CHƯƠNG   2

NGÀY 26 THÁNG 4 1975

 

Giá đồng đô la : 4000 đồng Việt Nam (giấy lớn :100 $ và 50 $, đề mang theo dễ dàng)

                        khoảng 3800 đồng Việt Nam  (giấy nhỏ)

Giá vàng : 700 đô la hay 3 triệu đồng Việt Nam một lượng, 37,5 gram

                                                            **********

 

     Tổng Thống Thiệu sẽ bay đi đêm nay đến Đài Loan, với 16 tấn hành lý gồm toàn bộ  sưu tập đá quý, đồ cổ,  và người ta còn nói vàng của Ngân Hàng Quốc Gia . (1)

      Tờ báo “Tin Tức Viễn Đông chạy hết trang nhất đầu đề : " Tổng Thống Pháp Giscard d’Estaing đã đàm thoại với Đại sứ Pháp tại Sài Gòn qua điện thoại.” Đó là tin tức quan trọng hàng đầu. Làm như là ở Paris không còn gì khác để làm và để thảo luận nữa vậy.

      Và đây là những lời tuyên bố của Thượng Nghị Sĩ Paul d’Ornano, nghị sĩ của những người Pháp ở Việt Nam, người đã  cùng đi một chuyến máy bay với chúng tôi :

-“ Tôi rất sung sướng được thấy là tôi đang ở giữa những người Pháp của Sài Gòn mà tôi thấy là họ rất bình tĩnh và cũng rất là xứng đáng như khi tôi đã ở đây với họ trong 3 tuần trước . Và tôi cũng rất là vui sướng để được nói với họ rằng Tổng Thống Pháp đã tiếp tôi ngay trước khi tôi lên phi cơ khời hành từ Ba Lê sang đây, để nhấn mạnh tất cả sự ân cần và quan tâm đối với cộng đồng người Pháp ở Sài Gòn , một cộng đồng mà ông biết và rất can đảm và rất có giá trị …”

     Ông Paul d’Ornano dự trù sẽ ở lại Sài Gòn khoảng 10 ngày rồi mới về Ba Lê. Không biết ông có đang mơ ngủ không vậy ? Trong mười ngày nữa tình hình của chúng ta sẽ ra sao đây? Đang lo băng bó các vết thương của chúng ta dưới đống gạch vụn của thành phố Sài Gòn ? Hay là đang là tù binh hoặc là bị bắt làm con tin của cộng sản Bắc Việt ?

     Ông Tổng Trưởng Ngoại Giao Jean Sauvagnargues còn tuyên bố là : "Vẫn còn hy vọng có khả năng thương lượng được một giải pháp chánh trị.”

     Tôi rất muốn thấy chuyện đó vào một buổi sáng quá nóng lúc tôi đang vừa uống tách cà phê sáng vừa ăn miếng đu đủ và trái măng cụt, vừa để ý lắng nghe được tiếng nổ không biết từ đâu. của một chiến xa ? một tiếng nổ lớn ? từ đâu ?

     Một anh tóc đỏ đang chạy giữa mấy chiếc bàn ăn. Anh ta là người của toán phát thanh. Anh ta là con trai của ông Tổng Trưởng Ngoại Giao, đang hợp tác làm việc với chúng tôi. Ông Đại sứ đang mệt với anh ta, vì đã nhờ hai anh sen đầm bắt được anh ta rồi, họ đã đưa anh ta về tòa Đại sứ rồi để tống cổ anh ta về Pháp. Nhưng anh ta đã trèo tường ra và hiện đang đến với chúng tôi đây.

     Câu chuyện “ngừng bắn” cụ thể đang được xác nhận.

Và đây là những điều kiện của cái gọi là CPLTCHMN đưa ra trước khi thương lượng:

-        Sài Gòn phải thành lập một chính phủ mới, một chính phủ không có bất cứ một người nào thuộc phe cánh của ông Thiệu.

-        Chánh Phủ đó phải tuyên bố lập trường vì hòa bình, độc lập, dân chủ, để hòa giải quốc gia và thi hành các điều khoản của Hiệp Định Ba Lê.       

-        Chánh Phủ đó phải bắt buộc các quân nhân Hoa Kỳ đang giả dạng thường dân phải rời khỏi tức khắc nướcViệt Nam và phải rút đi tất cả các tàu chiến và hải quân Hoa Kỳ ra khỏi vùng biển của nướcViệt Nam.

-        chính phủ đó phải bảo đảm các quyền tự do dân chủ và trả tự do cho tất cả tù nhân chánh trị

Chỉ còn co` tướng Dương văn Minh một mình trên sân khấu chánh trị; nhưng Tổng ThốngTrần văn Hương đã nhiệm chức được 5 ngày nay, rất muốn được nắm quyền Tổng Thống đó tối thiểu một tuần lễ. Ông ta đã có đề nghị với tướng Minh ghế Thủ Tướng với tất cả quyền hành , nhưng tướng Minh đã từ chối.

      Chúng ta đang ở chỗ nầy.

      Tướng Nguyễn cao Kỳ, một đối thủ bất hạnh của ông Thiệu, viên phi công nhỏ bé với hàm râu mép và với bộ đồ bay màu sắc rực rỡ dạo nào, được thấy xuất hiện trở lại. Ông ta từ đâu đến ?

       Ông tuyên bố là ông ủng hộ tướng Minh Dương. Theo ông thì một chính phủ mới là rất cần thiết, để lấy lại lòng tin trong dân chúng, và để hoạch định một kế hoạch hầu đạt được một sự ngừng bắn. Với một vài tướng lãnh khác, những người được coi là ưu tú của quân đội Miền Nam Việt Nam, ông ta cũng sẽ thử cố quân bình lại tình hình quân sự . Ông ta chắc cũng còn rảnh rỗi, vì ông cho tôi biết là ông ta sẵn sàng dành cho tôi một cuộc phỏng vấn. Giờ giấc ? Tùy ở tôi .

       Ông Phó Thủ Tướng (chắc là tướng Trần văn Đôn), mà cũng là Tổng Trưởng Quốc Phòng đã có quyết định về phần ông, là sẽ có những biện pháp cứng rắn hơn đối với những công dân nào muốn chạy trốn ra khỏi đất nước . 

      Biện pháp gì đây ? Ai sẽ có biện pháp ? Chẳng còn gì nữa cả . Quân sự thì hỗn loạn, chánh trị thì trống rỗng. Về tướng Đôn nầy thì ông không có gì mà phải sợ bị thiệt thòi.. Sanh đẻ ở Bordeaux, ông ta là công dân Pháp. Và dầu cho ông có đốt giấy thông hành hay cấp bậc sĩ quan Pháp của ông để làm vui lòng ông Diệm và bà Nhu chăng nữa, thì ông cũng vẫn biết là ông ta sẽ không bao giờ mất quốc tịch Pháp của mình đâu. Toàn là chuyện trò hề !

      Nhưng kìa, thình lình một tin tức được truyền đi làm xuống hẳn giá ngoại tệ và giá vàng. Báo chí thi nhau đăng tin nầy, kể cả tờ Saigon Post và tờ Tin Tức Viễn Đông.

       “Ở Hà Nội đã xảy ra một cuộc đảo chánh. Tướng Võ nguyên Giáp đã phải đi lánh nạn ở Mạc tư Khoa , trong khi 5 sư đoàn  quân Bắc Việt phải trở về Miền Bắc để lập lại trật tự ở đó.”

       Và người ta dựa trên việc đó để giải thích sự ngừng hoạt động của quân Bắc Việt .

Người ta lại cho tôi một giải thích khác nữa thiết thực hơn : quân Bắc Việt đang gác súng chờ tướng Minh thành lập chính phủ, một chính phủ mà Hà Nội sẽ chấp thuận để thương thuyết.

      Về phần mình, người phát ngôn viên của Ngũ Giác Đài (Hoa Kỳ) chỉ ghi nhận có một sự yên tĩnh ở Miền Nam Việt Nam . Ông ta cho đó là vì quân cộng sản Bắc Việt đang cần có một sự tái tiếp tế về xăng dầu và đạn dược. 

       Riêng tôi thì tôi lại có cảm tưởng rằng cộng sản Bắc Việt đang tập trung các đơn vị của họ chung quanh Sài Gòn để sẵn sàng phóng ra một cuộc tấn kích cuối cùng. Họ có được lợi ích gì để thương lượng với tướng Minh thay vì với ông Hương ? Vai trò trung gian mà nước Pháp muốn thực hiện có làm cho những người quốc gia cực đoan lo sợ hay không khi chúng ta không quên rằng họ vẫn còn nhớ là chúng ta đã chiếm đóng đất nước của họ trong gần non một thế kỷ ?

      Đám đông dân chúng đang xin được di tản càng lúc càng đông hơn bao giờ hết trước tòa Đại sứ và Lãnh sự quán Hoa Kỳ, đã làm tắc nghẽn sự lưu thông ở đây và xe cộ phải rẽ qua một con đường khác.

       Trước khách sạn, người ta đang bán các loại sách thường là sách cũ và thuộc các thư viện tư. Tôi rất nghi ngờ về xuất xứ của các loại sách nầy. Các anh bồi phòng đã bắt đầu đánh cắp của chủ vì những người chủ nhà đã bỏ nhà ra đi rồi. Tôi mua được quyển “Cuộc du hành để khám phá Huế ờ xứ Nam Kỳ” (xuất bản ở Ba Lê năm 1889) chỉ với vài đồng bạc Việt Nam. Trong đó tôi đọc được một đoạn. Thì ra tất cả đều chỉ có một thứ bột. Đứng trước một sự quá ư đầy đủ, đứng trước một sự thiếu hiểu biết trầm trọng về dân tộc nầy, người ta vẫn tỏ ra sửng sốt.

        Mới có 9 giờ sáng mà trời đã quá nóng rồi. Những cơn mưa lớn của gió mùa sẽ bắt đầu và những đám mây đen kịt đang che phủ bầu trời chưa thấy tan ra.

Tôi và anh Coutard tản bộ đi viếng chợ trời. Đó cũng là một thú vui khi đến Sài Gòn . Người ta có thể tìm thấy mọi thứ được tuồn ra đây từ các căn cứ và chợ của quân đội Mỹ từ các loại máy thâu thanh nhỏ bằng transistor, các máy ảnh, các loại máy thâu băng, máy quay phim, đến các chai rượu huýt ky, rượu khai vị, rượu rum rồi các loại đậu phộng rang, bắp rang, các loại túi vải đeo lưng của quân đội , ống dòm  v.v. thượng vàng hạ cám đủ các thứ…..

      Giá cả thì vẫn không thay đổi, và cũng vẫn là các bà vợ cảnh sát là chủ quầy hàng.. Họ giống như những con gà mái lớn ôm trong tà áo thay vì trứng là các máy Nikkon, Canon, Sony, v.v…

      Chúng tôi gặp một nhóm đông những anh sen đầm Pháp. Để phòng xa những chuyện bất ổn, nhân viên của tòa Đại sứ Pháp được tăng cường 13 anh sen đầm còn độc thân thuộc hạt Périgord hay ở Larzac, người khỏe mạnh, ăn nói chững chạc. Họ rất tự nhiên và thoái mái giữa những người bán hàng lậu nầy, trả giá các máy quay phim, và cũng đã biết giá hối đoái của đồng bạc và đồng mỹ kim rồi, không dễ bị gạt đâu, họ sống rất là sung sướng vì có sức khỏe, sẳn sàng đánh đấm hay dùng vũ khi nếu cần. Họ vừa đi vừa vui vẻ tán gẩu với mấy cô gái mà họ cho là đẹp và không có gì đáng sợ. Không phải hạng người dễ dãi mà cũng không phải là hạng điếm đàng. Trái lại là khác. Họ chỉ muốn cho chúng ta biết về gia thế của họ thôi, đó là những người đáng kính , có tài sản đàng hoàng.

       Người con trai độc thân dù là Pháp hay là Mỹ lúc nầy rất là được giá. Một món hàng đắt giá nhất trên thị trường Sài Gòn , đó là những người mạnh khỏe. Người con gái Việt Nam khi có được một người chồng Pháp thì đương nhiên sẽ được có quốc tịch của chồng mình và sẽ nhận được một thông hành Pháp. Không có vấn đề chiếu khán xuất cảnh nữa.

       Thấy râu tóc của mình quá dài cho mùa nóng nực nầy ( 33 đến 36 độ) tôi phải lo đi cắt tóc mới được . Tôi vào một hiệu cắt tóc lớn ở dưới đường Catinat, ở đây nhân viên phục vụ toàn là phái nữ. Rõ ràng là những hoạt động của tiệm cắt tóc nầy không chỉ giới hạn trong việc săn sóc sắc đẹp mà họ còn có thể làm thêm công việc giúp cho những bạn trai bớt cô đơn. Lúc tôi bước vào thì tiệm có vẻ vắng khách. Các cô dùng thì giờ rảnh rỗi để cắt móng tay hay kéo một vài hơi thuốc lá.

      Trong lúc người ta gội đầu cho tôi, rồi tỉa tóc cho tôi, rồi cắt móng tay cho tôi (sau đó người ta hỏi tôi xem tôi có muốn gì thêm nữa thì trên lầu sẵn có khâu đấm bóp và thư giãn), thì tôi để ý đến một cô người Tàu rất là đẹp, hình như đang sắp sửa đi du lịch. Một chiếc va ly da samsonite, và một túi da lớn được thấy ngay bên cạnh cô ta. Cô đeo hầu như gần hết nữ trang của mình. Ánh đèn chiếu sáng lấp lánh các hột xoàn bên hai vành tai của cô ta. Ngồi trên một ghế phô tơi ngay sát bên cạnh tôi, là một người Mỹ to lớn với chiếc sơ mi bông màu rực rỡ bỏ ngoài, trên cái bụng phệ của ông ta . Cô gái người Tàu có vẻ sốt ruột, nôn nóng. trái lại anh chàng Mỹ kia thì rất là bình tĩnh. Ông ta đòi 3000 mỹ kim để ghi tên cô ta vào danh sách. Và ông ta còn nói rõ là “tiền mặt”.

      Mỗi người Mỹ đều có quyền, với tư cách cá nhân của mình, được ghi tên 8 người vào danh sách đi : vợ, gia đình Việt Nam của người vợ hay của người vợ chưa cưới của mình.

Cô gái người Tàu trả giá, môi mím chặt. Nhìn bề ngoài thì rõ ràng là sắc đẹp của cô ta không làm cho anh chàng Mỹ kia chú ý, mà chỉ có đồng tiền của cô ta thôi. Người ta ngã giá là 2700 đô la ngay trước mặt tôi. Người Mỹ đứng dậy, cô gái đi theo ngay, mang theo cả va ly và xách tay. Hướng về Tân sơn Nhứt .

    Cô thợ làm móng tay cho tôi cho tôi biết cô Tàu kia là bà chủ của cô, và anh chàng Mỹ kia chỉ là một nhân viên nhỏ trong vô số ban, ngành trong tòa đại sứ, nhưng lại có cơ hội và phương cách để kiếm được vài chục ngàn đô la, khoảng chừng 20 ngàn nếu anh ta tìm đủ được 8 người cho danh sách của mình.

      Đã 10 giờ 30 sáng. Chúng tôi đang ở tại tòa Đại sứ Pháp. Và ông Jean Marie Mérillon đang tiếp chúng tôi .Tôi đã từng gặp ông này ở thủ đô Amman của nước Jordanie, nơi mà ông đã bị một tháng 9 đen tối, vì các chuyến bay không được đáp xuống, và các trận chiến giữa người Árập di cư và người Palestine. Ông ta đã sửa tòa Đại sứ của mình thành như một pháo đài, vì nó nằm giữa hai lằn đạn của cả 2 phe, và trong liên tiếp 3 tháng trường, chính ông ta và nhân viên của ông đã sống trong tình trạng như bị vây hãm.

      Nhỏ con, người  mảnh khảnh nhưng rất lanh lẹ (tướng De Gaulle đã phái ông ta sang cho quốc vương Hussein với lý do là bóng ông ta sẽ không thể nào che khuất được quốc vương ) ông đã từng là một cựu sinh viên sáng giá. Bây giờ thì ông đang tóm lược cho chúng tôi nhanh chóng tình hình trên một tấm bản đồ lớn của Miền Nam Việt Nam treo ngay phía sau bàn làm việc của ông.

- “Bọn cộng sản Bắc Việt , các anh muốn gọi họ là Việt Cộng cũng không sao, hiện đang ở chung quanh Sài Gòn với lực lượng đáng kể. Ít nhất là 15 sư đoàn . Chỉ còn có một cứu cánh, đó là tướng Minh Dương. Một khi được trao cho quyền bính rồi thì ông ta là người duy nhất có thể thương lượng. Nhưng mà chúng ta đã mất quá nhiều thì giờ. Ông già Hương, người muốn tự xem mình như Thống chế Pétain, đã không muốn rời khỏi ghế Tổng Thống . Ông ta muốn được giữ nó ít nhất trong 8 ngày để lưu lại trong lịch sử Việt Nam một kỷ niệm của ông ta, dù ông ta là một người rất khiêm nhường. Ông ta đã tuyên bố với tôi rằng :

-" Này ông Đại sứ , cũng giống như Thống chế Pétain, tôi đã hiến thân nầy cho đất nướcViệt Nam”

(Có nhiều người xấu miệng đã cho rằng ông cũng có thể tự xem mình là “người” có thể dám nói là “ tôi đã hiến thân nầy cho nước Pháp” lắm đó)

       Ông Hương là một người đã lớn tuổi, hay hay, và thống thiết, và lúc nào cũng muốn bám víu vào tính cách hợp pháp, hợp hiến một cách vô vọng. Ông ta lý luận như sau : “Ông Thiệu là Tổng Thống của nền Cộng Hòa đã trao quyền hành lại cho tôi một cách hợp pháp vì tôi là Phó Tổng Thống . Tới phiên tôi tôi cũng phải làm giống như vậy, tôi sẽ  trao quyền Tổng Thống lại cho ông Chủ Tịch Thượng Viện là ông Trần văn Lắm. Khi đã nắm được quyền rồi thì ông Lắm sẽ triêu tập Quốc Hội Lưỡng Viện lại, và chỉ có Quốc Hội mới quyết định gọi ông Minh đến để trao thẳng cho ông ta quyền bính, dĩ nhiên dù có sai chút ít đối với Hiến Pháp.

“ Nhưng mà bọn cộng sản Bắc Việt không muốn ông Hương chút nào.Vì ông đã từng phản bội họ. Ông đã từng chiến đấu trong hàng ngũ của cộng sản trong 4 năm.

“Tôi đã có cố gắng đẩy ông già gân nầy ra khỏi ghế Tổng Thống của ông ta, nhưng ông đã cố giữ lại. Ông đã là một người gần như mù rồi, đi đứng lại khó khăn , bây giờ ông lại muốn làm một người điếc nữa !

     “Một khi ông Thiệu và nhóm quân nhân của ông ra đi rồi thì chúng ta chỉ còn lại những chánh trị gia lớn tuổi của thời Nam Kỳ thuộc Pháp mà thôi. Họ còn lại ở những Ban và Tiểu Ban với những bài diễn văn kêu to nhưng vô tích sự với tất cả những nghi lễ mà chúng ta đã chỉ dạy cho họ. Những bình bông của thời đệ tứ Cộng Hòa với những đóa hoa cằn cỗi hay lỗi thời trước khi De Gaulle nắm chánh quyền. Nhưng giờ đây tình hình ở Việt Nam còn gấp nghìn lần bi đát hơn nước Pháp lúc đó nữa.

      “ Tôi có cảm tưởng như là không có môt ai biết được hơn chúng ta là hiện ta đang ở đâu, và tôi hình như đang nói chuyện với những người đang ờ trong trạng thái “mộng du”

      Qua một khe cửa ông Đại sứ chỉ cho chúng tôi một tòa nhà lớn : tòa Đại sứ Hoa Kỳ

-“Và ở đây cũng vậy ! toàn là những người đang “mộng du”.

      Bây giờ là 12 giờ trưa rồi. anh Coutard đi ra ngoài, còn toán của chúng tôi có lẽ cũng sẽ tới bằng chuyến phi cơ của Hàng Không Việt Nam., chuyến bay liên lạc thường xuyên hằng ngày giữa Sài Gòn và Bangkok.

     Tôi cố gắng sấp xếp lại mọi việc cho có thứ tự trong đầu của tôi trong lúc tôi tản bộ từ tòa Đại sứ trở về phòng.

      Tình hình quân sự coi như vô vọng rồi. Người  Mỹ họ đã cho di tản nhân viên của họ và những người Việt Nam đã làm việc với họ theo kế hoạch đã định trước, không gấp gáp lắm. Làm như họ vẫn còn nhiều thì giờ lắm vậy.

      Cảm thấy mình đã bị Hoa Kỳ bỏ rơi, người dân Miền Nam Việt Nam mà nhất là dân Sài Gòn tự nhiên quay về với nước Pháp . Họ cần có một người cha. Mất cha rồi thì họ tìm đến người ông. Nhưng ông người Pháp thì đã quá mệt mỏi rồi. Ông ta đã chán ngấy với tất cả các loại phiêu lưu chánh trị hay quân sự nên không thể làm gì cho họ hơn được ngoài những lời khuyên lơn và những mỹ từ. Người  dân Sài Gòn không làm chủ lịch sử họ bao giờ . Họ phải luôn luôn nắm tay người cha, dù là cha Pháp, Nhật hay Hoa Kỳ .

     Và kia là người ông Pháp đang trở lại với đôi nạng. Chỗ nào cũng thấy bắt đầu treo cờ 

tam tài. Người ta sơn cờ cả trên nhà và các kho hàng nữa. Còn các nhật báo nào còn xuất bản thì đã đổi giọng rồi. Bây giờ người ta gọi cộng sản là “phía bên kia” và người ta không còn nói tới chuyện “ngừng bắn” nữa.

      Chánh Phủ quân sự ở Sài Gòn cuối cùng rồi cũng ra một thông cáo : “Từ nay, giờ thiết quân luật sẽ  chấm dứt từ 6 giờ sáng thay vì 7 giờ nhưng sẽ bắt đầu từ 8 giờ tối.”

 Hàng ngàn người Việt Nam được báo trước là họ sẽ phải đi ngay không chậm trễ, đã chuẩn bị hành lý và bỏ nhà để đến các địa điểm tập trung, ở đó họ được xe buýt và các loại xe khác của tòa Đại sứ Hoa Kỳ bốc đi.

       Chúng tôi đang ngồi uống một ly rượu với một ông đại tá của Miền Nam Việt Nam . Ông nầy sau khi đã phục vụ trong binh chủng Dù đã về làm việc ở văn phòng báo chí thuộc  Bộ Tổng Tham Mưu . Ông ta có vẻ sốt ruột. Không biết ông ta muốn trấn an chúng tôi hay tự trấn an mình. Ông ta nói :

-“ Tình hình thật ra cũng rất là bi đát nhưng không đến đỗi vô vọng. Với sự giúp đỡ của các đơn vị Dù và các đơn vị xung kích, chúng tôi đã quyết định thành lập các toán du kích ở đồng bằng. Cuối cùng rồi chúng tôi cũng sẽ  chiến đấu theo lối cách mạng và sẽ chống lại cộng sản bằng chính vũ khí và chiến thuật của họ."

Rất là quan tâm, tôi hỏi lại ông ta :

- Ngày mai ông sẽ làm gì? Chúng ta gập lại nhau được không ?

- Tôi rất bận ngày mai. Tôi phải sửa soạn  cho con tôi nó đi xuất ngoại.

Chắc chắn là ông ta bận lo cho chính ông ta thì phải hơn. Trong lúc ông ta vừa mơ về khu kháng chiến vừa nhậu huýt ky, chắc chắn là ông ta đang tính chuồn.

      Vì các cấp chỉ huy của ông đã cho ông gương xấu, như Tổng Thống Thiệu, Thủ Tướng Khiêm, tướng cố vấn quân sự Đặng văn Quang, các tỉnh trưởng… tất cả những người nào đã kiếm tiền đầy túi rồi bây giờ họ phải bay đi Đài Loan, Phi luật Tân hay Hoa Kỳ

    Nếu như binh sĩ mà không xứng đáng để đi đến sự thất trận thì cấp chỉ huy của họ đều phải hoàn toàn chịu trách nhiệm, dĩ nhiên trừ một vài trrường hợp. Họ đâu đến đổi điên hay vô tâm đến độ không biết rằng trước mặt họ là cả một đội quân cảm tử, không biết gì là tham nhũng, với những cấp chỉ huy thật tâm chia xẻ với họ cả về sinh mệnh lẫn hành động.

      Chìa khóa của sự sụp đổ của cả một lâu đài từ trong nhiều năm qua là tướng Thiệu nầy. Từ đầu đến cuối chính ông ta đã để cho cả binh sĩ và dân chúng của ông trong trạng thái “mộng du” (đi rong trong giấc ngủ mê). Cho đến lúc chính ông nửa tỉnh nửa mê, đã lấy một quyết định hết sức thảm hại là rút quân bỏ Vùng Cao Nguyên mà không tham khảo với một ai hết, mà cũng không có một công tác chuẩn bị nào cho sự rút quân nầy.. 

      Vậy ông Thiệu là ai ? Đã nhiều lần chúng tôi đã tự đặt câu hỏi đó trước mặt người nầy, một người thật sự chẳng có ra gì.

       Trước tiên ông không phải là một quân nhân ưu tú. Theo sự nhận xét của tất cả các chuyên viên thì ông sống với quá nhiều sự bảo vệ và ngay lúc ông sấp sửa về hưu thì ông lại được thăng cấp thiếu tá giả định . Nhưng ông là một chánh trị gia lỗi lạc, một người biết cách lợi dụng các sư đoàn thuộc phe đối lập một cách ngoạn mục, và lợi dụng sự thèm khát của các quân nhân . Đồng thời tỏ ra cho người Mỹ thấy khó mà tìm ra người thay thế ông được .

    Ông đã trị vì 10 năm. Ngày 17 tháng 6 năm 1965, sau nhiều ngày bàn cãi, trả giá gay go, ông được bầu lên làm lãnh đạo với đa số phiếu của đại diện quân nhân các cấp, giúp ông loại được đối thủ là tướng không quân Nguyễn cao Kỳ. Hai năm sau ông được bầu lên làm Tổng Thống nước Việt Nam Cộng Hòa và được tái đắc cử ngày 30 tháng 10 năm 1971. Ông từ chức ngày 21 tháng 4 năm 1975.

     Ông Nguyễn văn Thiệu thuộc một gia đình ở Miền Trung, dư ăn dư để, không hơn không kém. Ông theo học một khóa sĩ quan hải quân và trong khi ông chỉ mơ ước được chỉ huy một tàu chiến thì một sự tình cờ lại đưa ông đến trường sĩ quan võ bị Dalat. Ông thuộc đảng Đại Việt, một đảng tinh hoa, theo lối nói của thời đó, một đảng quốc gia cực đoan đã có lúc hợp tác với người Nhật. Trong những người thân cận của ông, người ta thường thấy các đảng viên Đại Việt, như tướng Trần thiện Khiêm chẳng hạn.

      Chống Pháp triệt để, ít nhất cũng trong lúc đầu, đảng Đại Việt đã đào tạo được một số cán bộ chánh trị và trí thức ở Việt Nam. Ông Diệm hình như đã thừa hưởng được gia sản nầy. Ông Thiệu ít hay nhiều cũng đã dính vào gia đình nhà Ngô, vốn là quan lại của triều đình. Và ông Diệm cũng là người làm cho ông Thiệu đi lên. Là sĩ quan trong quân đội Pháp, ông Thiệu chỉ có làm cho người ta chú ý vì sự tránh né và sự kín đáo của ông.

     Ở Đông Nam Á, người Trung Hoa thường hay đầu tư vào một số nhân vật nào đó, với hy vọng một ngày nào đó người đó lên nắm được quyền hành thì họ sẽ được trả giá gấp bội. Ông Francis Koo đầu tư vào ông Thiệu. Không biết vì trực giác hay do thông minh tính toán ? Là một người Trung Hoa sanh đẻ ở Thượng Hải, được nuôi nấng nên người ở bên Pháp, ông thuộc một gia đình lớn người công giáo. Ông là bạn thân của con trai ông Tưởng giới Thạch, và chỉ là một đệ nhất thơ ký của tòa Đại sứ Trung Hoa Quốc gia tại Sài Gòn, vào thời ông Diệm. . Chỉ là một tấm bình phong. Sau khi một hiệp ước giữa các nước hội viên của tổ chức O.T.A.S.E. được ký kết thì ông Koo chỉ huy hết các tổ chức tin tức tình báo của Phi Luật Tân, Thái Lan, Mã Lai Á và Đài Loan. Một loại phối trí viên chịu trách nhiệm về những cuộc hành quân chánh trị .

      Ông Thiệu lúc đó chỉ là một sĩ quan thường đang làm việc trong triều đại của ông Diệm. Ông vào đạo Thiên Chúa giáo và cưới một bà vợ người Miền Nam , người công giáo, sáng sủa, nhưng thích tiền và danh vọng. Cũng như các bà Việt Nam khác, bà là một tay chạy áp phe đáng ngại.

     Là một đại úy lúc ông Diệm nắm chánh quyền , ông lên Thiếu Tá và sau đó Trung tá. Ông ta luôn luôn dửng dưng và kín đáo. Ông rất là trung thành với chủ nghĩa quốc gia của mình và khéo léo giúp đỡ mọi người . Luôn luôn ông không làm cho người ta chú ý đến mình. Ở trong dinh, người ta khen ông về sự yên lặng và sự trung thành của ông. Ông vào được nhóm người của ông Diệm là nhờ gia đình của ông, dù muốn dù không ít nhiều cũng đã nằm trong quỹ đạo của nhà Ngô, nhờ vào đạo Thiên Chúa của ông và nhờ vào đạo của bà vợ ông.

        Ông Francis Koo đã cho ông lời khuyên và yểm trợ ông. Ông Thiệu trở thành chỉ huy trưởng đoàn vệ binh của Tổng Thống . Cuối cùng ông nắm đươc một vị trí then chốt và ông đã sẵn sàng để được người ta trả giá.  

     Khi ông Diệm bị lật đổ, ông khôn ngoan đứng ngoài, và chỉ nhảy vào tham gia khi ông đã hiểu (hay Koo cho ông biết không  chừng) rằng nhóm chủ trương đảo chánh sẽ thắng vì họ có sự ủng hộ của Hoa Kỳ . Và chỉ có ông mới có thể cho phép hai ông Diệm Nhu trốn khỏi từ Dinh Gia Long để chạy đến một nhà thờ ở Chợ Lớn . Ở đó hai người bị khám phá ra sau khi bị tố giác. Cũng có thể do ông ta. Ông ta khôn khéo lắm!(2)

      Ông Thiệu không thích lộ diện trên sân khấu. Để cho các tướng lãnh trẻ , sáng giá tự do mua may quây cuồng và xâu xé lẫn nhau. Chỉ có ba vòng tôi là tướng Minh Dương và các tướng lãnh thân Pháp phải ra đi : Lê văn Kim, Trần văn Đôn, Mai hữu Xuân và Tôn thất Đính. Sau đó là Khánh và tướng Minh Trần… Bây giờ mới xuất hiện tướng Nguyễn cao Kỳ với hàm râu mép, và cả một lô phi công của ông ta, những người thích chơi trò cao bồi ngoài phố.

       Người ta mới bắt đầu nói tới ông Thiệu như là một người duy nhất biết điều và có lý tính trong chính trường của nhóm quân nhân thích đu giây, quên chiến cuộc mà chỉ ham làm chánh trị giống như một nhóm người biểu diễn trò xiếc ngoài đường phố.

      Bọn Việt Cộng chiếm các ấp chiến lược, thiết lập các hệ thống của họ trong các thành phố. Hoa Kỳ chuẩn bị can thiệp mạnh khắp nơi để tái lập tình hình bi đát đó lại. Nhưng chỉ sau khi Hà Nội đã bác bỏ đề nghị hòa bình của Tổng Thống Johnson. 

      Lẽ ra họ phải chấp thuận ngay lúc đó hơn là phải đến một năm sau, và nếu không có  thêm 2 triệu người chết nữa, cờ đỏ đã phất phơ ở Sài Gòn rồi.

      Vào tháng 3 năm 1965, 10 triệu người trong  số 14 triệu dân ở Miền Nam lúc bấy giờ đã trực tiếp hay gián tiếp bị dưới sự kềm kẹp của Việt Cộng vốn kiểm soát gần 4/5 lãnh thổ. Chánh Phủ chỉ còn có các thành phố , giống như những hạt nho khô trên bánh ngọt vậy

      Hoa Kỳ thấy không thích thú lắm khi họ nhảy vào cuộc chiến bẩn thỉu nầy, vì cộng sản đã từ chối một nhượng bộ tối thiểu khả dĩ giúp họ khỏi mất mặt và tránh khỏi cái bẫy. Họ muốn ít nhất cũng phải có một vị nguyên thủ quốc gia coi được để không làm bực mình dư luận quần chúng Hoa Kỳ vì những trò hề của mình. Họ chọn ông Thiệu, một người có vẻ đứng đắn, chớ không phải ông Kỳ với nhóm áo bay màu cam và các cảnh sát thích trò giải trí vui chơi.

       Vận xui “không phải lúc” lại đến . Một chiếc trực thăng Mỹ bắn nhằm rốc kết xuống một căn nhà nơi đó đang có một cuộc hội họp của Bộ Tham mưu tướng Kỳ, nhưng cũng may là tướng Kỳ chưa đến. Biến cố nầy làm cho tướng phi công mất đi một số phụ tá đàn em giỏi.

       Kể từ lúc đó, mức điểm của tướng Kỳ xuống thấp và ngôi sao của ông Thiệu lại lên. Ngoài ra ông Thiệu còn có một lợi thế lớn hơn đối thủ của mình : ông biết rõ các bạn của mình, ông biết răng của họ đang ngứa , họ đang thèm danh vọng, tiền bạc và thăng quan tiến chức. Nhất là tiền. Lương của một đại tá hay của một ông tướng không có nghĩa lý gì. Người ta không có sống được đúng mức. Để có thêm nhiều thân hữu chống tướng Kỳ, ông Thiệu phải có nhiều tiền hoặc do nhóm người Tàu hoặc do Mỹ cung cấp. Nhờ đó ông mua được các cấp thiếu tá và đại úy. Và trả tiền mặt (3). Còn ông Kỳ thì chỉ có hứa suông. Vì bị mất một số cảnh sát viên thân cận trong biến cố nói trên, nên ông thấy những nguồn lợi chính vốn thu được từ các tổ chức kiếm tiền như các quán rượu, gái nhảy hay ma túy… bị cạn dần . Còn ông Thiệu thì thiết lập hệ thống hối lộ vốn giúp ông từ đây nắm vững được quân đội dể các cấp sĩ quan đại diện có thể bầu ông lên vị trí lãnh đạo với đa số phiếu áp đảo.

      Khi nắm được chánh quyền rồi thì ông Thiệu sẽ giữ chặt lấy. Vì đã chán không muốn nghe nói tới chuyện đảo chánh hay âm mưu đảo chánh nữa nên người Mỹ coi như đã chọn được đúng người rồi và quyết định cứ giữ nguyên như vậy,  do đó rất có lợi cho ông Thiệu .

      Ông Thiệu có tính hay đa nghi, và quỷ quyệt như cáo già giống như ông đã làm chánh trị trong suốt cuộc đời của ông vậy. Không phải chánh trị lớn lao gì mà là nhỏ thôi với những mánh khóe trong cạnh tranh cá nhơn, trong những cuộc tranh đấu ngoài hành lang về ảnh hưởng, về thế lực. Ông loại tất cả các đối thủ của mình bằng cách cho người nầy chống người kia, hoặc mua đàn em của họ.

      Bà Thiệu và bà Thủ Tướng Khiêm qua thương nghiệp của mình đã gần như thu hút hết tiền tệ của Miền Nam Việt Nam . Nếu không qua hai bà thì người ta không có thể  có một chỗ làm tốt, chẳng những hái ra tiền mà còn không nguy hiểm đến tánh mạng với một đồng lương khốn khổ. Mà phải trả trước và phài tỏ ra trung thành với phe cánh mới được.(4)

         Ông Thiệu đi lên từ từ, không nỗ lực lắm, không phạm một vụng về nào và rất thản nhiên. Đươc các tướng lãnh bỏ phiếu tín nhiệm, giờ đây ông lại được dân chúng bầu lên làm Tổng Thống nước Việt Nam Cộng Hòa . Người Mỹ tin tưởng rằng ông rất cứng và thông minh. Ông rất ít nói. Nhưng than ôi ông quá yếu ớt và không thể đứng vững một mình được. Ông cần phải có một người đỡ đầu để hướng dẫn ông và trợ lực cho ông. Sau người Pháp là ông Diệm, và sau đó là người Mỹ, và ông Nixon, Tổng Thống Hoa Kỳ . Ông không biết tý gì về vụ Watergate (nghe lén). Ông không thể chấp nhận được chuyện đó. Theo ông thì làm chánh trị là phải làm như vậy mới được. Tại sao người ta trách Tổng Thống Hoa Kỳ về chuyện đó ? Chuyện mà ông thường làm hằng ngày để loại trừ các đối thủ của ông ?.

      Trong bài diễn văn cuối cùng mà ông đọc trước khi ông từ chức, ông buộc tôi Hoa Kỳ là đã phản bội ông và phản bội cả ông Tổng Thống Nixon là người đã  ủng hộ ông.

Ông Thiệu là một người quốc gia trung thực, nhưng ông không thể tưởng tượng hình dung ra được một chế độ không tham nhũng. Ông chỉ là một người do các bạn đồng nghiệp của ông bầu lên . Ông phải liên tục trả tiền cho họ để họ đứng yên và tỏ ra trung thực hay có vẻ trung thực, đó là quy luật, đồng thời họ phải loại trừ những người chống đối chế độ: đó là các tướng lãnh tốt. Ngoài ra tất cả người còn lại đều xoàng.

       Từ một năm nay, chuyện tham nhũng đó đã lan rộng ra, không tha thứ được. Những người chung quanh ông Thiệu ngày càng tỏ ra ham ăn. Ông Thiệu không có một phẩm chất quân sự nào hết và ông lại bất cần các tướng lãnh khác. Những người mà ông đã đưa lên làm tư lệnh lữ đoàn, sư đoàn, quân đoàn, tỉnh trưởng, vùng chiến thuật… đều có nhiệm vụ phải làm tiền để làm giàu cho quỹ của đảng và mua chuộc người nầy người  khác. Họ không phải được chọn vì nhiệm vụ hay vì phẩm chất quân sự  mà chỉ vì sự trung thành và vì đồng tiền mà họ phải cung cấp (5) . Người Mỹ đã không còn ở đây nữa thì chỉ còn có đè đầu dân chúng để lấy tiền mà thôi. Tuy nhiên cũng còn một vài đơn vị xung kích còn nguyên vẹn như các đơn vị Dù vốn tôn trọng tinh thần đồng đội hơn là lợi lộc. Nhưng mà sau khi họ không còn bị luân chuyển như chong chóng phục vụ hết tiểu khu nầy đến tiểu khu khác, thì họ lại phải “đóng quân”như Thủy quân lục chiến ở Quảng Trị, thì  lúc bấy giờ họ lại mắc phải cùng một thứ bệnh và từ ông đại tá đến anh thiếu úy thường ai cũng chú tâm đến chuyện mua bán hết.

      Linh hồn chốn địa ngục của ông Thiệu là tướng Đặng văn Quang, một  con heo mập, mà ai cũng biết rõ là bà vợ của ông nầy đã có giao dịch buôn bán với bọn Việt Cộng . Ông ta là chủ lớn của đường dây ma túy. Lợi lộc hơn nhiều đối với việc mua bán lúa gạo hay gỗ xây cất từ vùng Việt Cộng mang về. Tổng Thống Thiệu đã chịu ảnh hưởng hoàn toàn của tướng Quang. Chính tướng Quang đã xuống lệnh cho quân đội  và đã cắt cử các tướng lãnh, nhưng ông Thiệu đã ra quyết định cho các cuộc hành quân mà không cần nghĩ biết xem những người được tướng Quang cắt cử đó có đủ khả năng thi hành hay không . Nói một cách cụ thể hơn là không còn có một bộ tham mưu nào nữa cả. Vì ông Thiệu với tính đa nghi  sợ sẽ bị lật đổ vì một cuộc đảo chánh quân sự nên đã  bỏ hẳn bộ tham mưu. Hậu quả :  lúc Bắc Việt tung ra chiến dịch Tổng Tấn Công vào tháng 3 năm 1975, thì quân đội gần như không có chiến đấu, vì quân đội không phải được thành lập ra để chiến đấu nữa vì thường thì cấp chỉ huy đều không có khả năng.

     Lúc nào ông cũng sống và hành động qua một người cha, nên người ta nói ông Thiệu sẽ mất hết tinh thần thực tế khi người Mỷ bắt đầu bỏ ông. Và vì ông không chấp nhận chuyện đó, nên ông từ chối không coi đó là một sự thật. Ông không hiểu tý gì về Hiệp Định Ba Lê và cũng giống như ông Diệm đối với Hiệp Định Genève, ông tin rằng ông không cần phải thi hành Hiệp Định đó. Hoàn toàn viễn tưởng ! Ông yêu cầu ông Nixon hãy làm sao cho ông được yên tâm. Tổng Thống Hoa Kỳ đã gởi cho ông 3 lá thơ riêng với tánh cách cá nhơn, bảo đảm với ông rằng nếu Bắc Việt tổng tấn công ông toàn bộ thì quân đội Hoa Kỳ sẽ bay sang tiếp cứu. Lúc bấy giờ ông Thiệu mới chịu ký tên vào Hiệp Định và lúc đó Kissinger mới nhận được nhận giải thưởng Nobel vể hòa bình .

Tháng chạp năm 1974: một sư đoàn chánh quy Bắc Việt tấn chiêm vùng Phước Long, chiếm đóng thị xã tỉnh lỵ đầu tiên thuộc một tỉnh của Miền Nam Việt Nam.

    Theo Hiệp Định Ba Lê và những điều khoản mật để bảo đảm cho Hiệp Định nầy, thì Hoa Kỳ phải yểm trợ Miền Nam Việt Nam. Nhưng Hoa Kỳ không có một hành động nào hết. Dư luận dân chúng Mỹ chống lại mọi hành động tái can thiệp, và lúc bấy giờ không phải ông Tổng Thống của Hiệp Chủng Quốc là người cai trị Hoa Kỳ nữa, (vì Tổng Thống Ford không phải là người được dân chúng bầu lên), mà là Quốc Hội lưỡng Viện đầy quyền lực đang trong giai đoạn “chơi” lại Hành Pháp.

       Ông Thiệu bắt đầu nhận thấy mình bị mồ côi. Ông không còn biết cái đầu của mình ở đâu nữa. Ông cảm thấy bồn chồn và không yên. Vốn là người không chịu nói chuyện với ai, là người không bao giờ lo lắng về một sự chống đối nào thật sự như một vài nhân vật nào đó, một vài lương tâm tốt của Phật Giáo , những người Công Giáo… tự nhiên ông thấy mình không có sự ủng hộ của dân chúng, thình lình ông muốn tìm tới một sự hòa giải với họ, muốn dựng lên một cái gì như là chủ nghĩa tự do. Thất bại hoàn toàn. Ông biến đi, người ta không tìm thấy được ông nữa . Ông như mất đi rồi, ông cảm thấy sợ, vì thấy mình cô đơn.. Thay vì ông tìm hiểu xem cái gì đã xảy ra, thì giờ đây ông đang ở trong trạng thái mộng du, và đất nước Việt Nam cũng đi theo ông luôn. Tất cả Miền Nam Việt Nam đang đi theo sau vị Tổng Thống của mình, trên một cây rui trên nóc nhà, mắt nhắm tít lại.

     Ông Thiệu là một người Công Giáo, nhưng ông còn tin hoàn toàn vào dị đoan. Ông tin vào thuật phong thổ và số tử vi , thờ cúng ông bà nghiêm túc, và thường tham khảo mấy người đồng bóng. Cha ông được chôn cất ở Cam Ranh. Trên mộ của người cha, ông có cho dựng lên một cây kim chỉ Nam lớn. Vào cái ngày mà quân cộng sản Bắc Việt bắt đầu chiến dịch Tổng Tấn Công vào Miền Nam Việt Nam, ngày 14 tháng 3 năm 1975, một cơn bão đã nổi lên và sét đánh trúng ngay vào ngôi mộ đó làm gãy cây kim đi. Đối với ông Thiệu, đây là một điềm rất xấu. Phải chăng chúng ta đang ở vào năm Mão (con mẻo) và ông Thiệu lại ở vào tuổi Tý (con chuột): Mèo luôn luôn bắt chuột ăn. Và phải chăng Staline và Fidel Castro cũng cùng tuổi con mèo ? 

      Ông Thiệu coi như đã thua rồi. Và không có một ai để xốc ông lên, để đánh thức ông dậy. Ông Đại sứ Graham Martin lẽ ra phải làm chuyện đó. Nhưng ông nầy cũng đang ở trạng thái “mộng du” khác, kiểu riêng của ông ta. Ông có một người con trai tử trận ờ Việt Nam. Theo ông thì cuộc chiến tranh nầy đã trở thành một dục vọng rồi. Ông không thể chấp nhận việc Hoa Kỳ đã bỏ rơi Miền Nam Việt Nam . Ông hành động như là Tổng Thống Nixon vẫn đang còn tại chức vậy, vì ông Nixon là người được dân chúng bầu lên, coi như sự kiện Watergate không bao giờ có vậy. Và do đó, chuyện ông Thiệu biến mất đi sẽ tạo nên một lỗ hổng chánh trị lớn

       Ông Thiệu đã có một kế hoạch nội an của ông Diệm trên phương diện chánh trị : một đảng chánh trị duy nhất, nhưng hai hệ thống song song. Những người tiếp nối ông không được chuẩn bị kỹ càng trong công tác nắm chánh quyền, đã tiềp tục đi theo con đường cũ đó tức là không có làm gì hết.

        Vào cái ngày thứ bảy 26 tháng 4  nầy, thành phố Sài Gòn đang mất máu lần lần và mất cả thịt nữa, nhưng việc đó chưa thấy rõ được lắm đâu.

       Có tin ngoài phố: Bọn cộng sản Bắc Việt  xác nhận là họ sẽ làm chủ thành phố Sài Gòn ngày 15 tháng 5 để ăn mừng ngày sinh nhật của Hồ chí Minh . Mặt khác, chiến dịch tổng tấn công mà họ đang tiến hành cũng được mang tên của người lãnh tụ già Bắc Việt.

       Tôi tự hỏi tại sao họ lại phải đợi đến ngày 15 tháng 5 ? Các sư đoàn chánh quy Bắc Việt chỉ có một việc là tiến vào thôi. Trừ phi ngoài Hà Nội người ta nhất quyết phải chọn ngày đó. Ngay từ đầu Hà Nội vẫn là người chủ của chuyện nầy .

    “Đâu có thề được, một người Việt Nam nói với tôi như thế, người ta không có nghe một tiếng súng đại bác nào cả”

     Tôi muốn đẩy mạnh anh ta để cho anh mở to cặp mắt ra. Nếu anh ta lên một chiếc xe tắc xi, và đi ra khỏi thành phố, thì anh ta sẽ nghe được những tràng súng đại liên ngay.

      Anh Raoul Coutard vừa ở Tân sơn Nhứt về. Chiếc phi cơ của Hàng Không Việt Nam đã từ chối không chịu cất cánh lên từ Bangkok. Chúng tôi vẫn không có một người nào thêm trong toán của chúng tôi .

      Tôi ngủ không được . Chiếc quạt máy không chạy nữa vì không có điện. Trời quá nóng. Và lại thêm sự yên tĩnh nầy !

       Có tiếng còi hụ của một chiếc xe Hồng Thập Tự cứu thuơng đi nhanh qua…..

 

**********************

CHÚ THÍCH (của dịch giả)

(1) Lời đồn thôi, vì số vàng dự trử đằng kho của Ngân Hàng Quốc Gia vẫn còn nguyên cho đến chiều ngày 30/4/75 thì ông Nguyễn văn Hảo mới giao cho người đại diện của cộng sản Bắc Việt để họ mang xe chở ngay về Hà Nội tối hôm đó.

(2) Đoạn nầy tác giả vì có định kiến và thành kiến với cá nhân ông Nguyễn vănThiệu nên viết có phần không  đúng lắm:

-        ông Thiệu với tư cách là đại tá Tư lệnh sư đoàn 5 bộ binh đã là người tham gia từ đầu trong nhóm quân nhân đảo chánh, như là một thành viên chánh thức, với sự tham gia của đơn vị của mình như là một đơn vị bộ binh chủ lực của cuộc đảo chánh 1 tháng 11 năm 1963.

-        Bản doanh của sư đoàn 5 không đóng gần dinh Gia Long nên việc hai ông Diệm Nhu trốn ra khỏi dinh Gia Long vào lúc gần sáng  hoàn toàn do hai ông Cao xuân Vỹ và thiếu tá Trang khánh Hưng sấp xếp và lo liệu, không dính gì đến ông Thiệu.

-        Khi đến nhà thờ cha Tam ở Chợ Lớn chính ông Diệm đã gọi điện thoại trực tiếp nói chuyện với tướng Dương văn Minh hồi gần 6 giờ sáng ngày 2 tháng 11, chớ tuyệt nhiên không có ai là người tố cáo hết, bản thân dịch giả có mặt ngay lúc đó trong phòng của tướng Minh với một số tướng lãnh khác, nên là nhân chứng biết rất rõ chuyện nầy.

(3) Việc nầy thì hơi lố bịch. Làm gì có chuyện nầy ? nhưng vốn tôn trọng quyền của tác giả chúng tôi cũng xin dịch đúng theo nguyên văn quyển sách.

(4) Đây cũng là một nhận xét hơi chủ quan của tác giả.

(5) Xin nói thẳng thừng là nhận xét của tác giả e rằng sẽ quá tội nghiệp cho hương linh của những vị anh hùng đã tuẫn tiết chăng ? như tướng Nguyễn khoa Nam, Lê văn Hưng, Trần văn Hai, Lê nguyên Vỹ, Lê văn Phú và các đại tá Nguyễn văn Cẫn…, hoặc cho một số rất nhiều quân nhân ưu tú khác thuộc mọi quân binh chủng như tướng Lê quang Trưởng, Lê văn Lưỡng, Lâm quang Thi, Đổ kế Giai, Lê minh Đảo v.v., các hải quân đô đốc Chung tấn Cang và Diệp quang Thủy, tướng không quân Trần văn Minh,  tướng thiết giáp Trần quang Khôi hay pháo binh Nguyễn đức Thắng, v.v.. hay các quân nhân ưu tú khác rải rác ở hầu hết các chức vụ hành chánh quân sự khác ? Vì tất cả đều chỉ biết hy sinh phục vụ cho chánh nghĩa quốc gia dân tộc chớ chẳng có ai là tay sai làm tiền cho ông Thiệu hay cho bất cứ ai cả !

--------------------

Xin đón đọc tiếp Chương 3 :  “NGÀY CHÚA NHẬT  27 tháng 4”

 


   Trở về trang Mục Lục     Chương 3 - phần 1

1