PHẦN THỨ HAI
----
NHỮNG NGƯỜI TỴ NẠN Ở ĐẢO BIDONG
12- HÒN ĐẢO ĐẦY RẮN RẾT
Ngày 28 tháng 4 1979. tại phi trường Roissy- Charles de Gaulle (Pháp)
Kouchner và Sénéchal, hai người vừa mới về tới Paris hai ngày trước , đã có mặt ở phi trường nầy với 2 bà vợ, để tiễn Jean Francois Pinot lên phi cơ. Tôi cũng đang ở đây vừa chờ lên phi cơ, vừa nói chuyện với họ. Anh Pinot, 30 tuổi, nhân viên điện tín, là người sẽ đến làm việc trên con tàu bệnh viện. To con, điềm tĩnh, anh là người đã hy sinh cả một tháng nghỉ hè của mình để đến phục vụ không công ở Pilau Bidong. Đây là nhiệm vụ đầu tiên của anh ở ngoại quốc. Trong hành lý của anh đã có thêm những món cần dùng khẩn cấp cho toán bác sĩ : dụng cụ mổ xẻ, khử trùng … Đến khu hành chánh nằm ở cuối đường, có một cái sân đất và 2 dãy nhà gỗ, một vài lều vải tất cả nằm trong một cái hàng rào thô sơ. Có một sự hoạt động thật là náo nhiệt trong đó. Các bạn đàn ông cũng như đàn bà làm việc ở đây đều ngồi trên ghế băng xếp quanh các bàn khập khểnh, chỉ có một bàn máy đánh chữ, ghi danh các thuyền nhân đến và đi, làm đủ loại danh sách, thống kê, và giải quyết các vấn đề hằng ngày. Phòng làm việc chánh (trung ương) nằm ở một trong hai căn nhà vòm nhỏ, đúng là một tổ ong ồn ào. Những người làm việc ở đây thiếu tất cả mọi phương tiện, dụng cụ: như vở học trò,bút chì, các mảnh giấy đủ loại. Thế mà ở đây coi như là một nơi làm việc hữu hiệu không tưởng tượng được . Không có đến một loại bàn ghế văn phòng nào hết, toàn là dụng cụ thô sơ, tủ thì không có cửa, chỉ có một tấm màn che bằng vải hay ni lông thôi nhưng chứa đầy đủ tất cả mọi loại hồ sơ.
Phòng chữa bệnh trung ương nằm dựa lưng vào hàng rào phía ngoài. Ba vị bác sĩ làm việc sau một cái bàn nhỏ. Căn phòng nhỏ bằng ván nầy được lợp tôn dợn sóng nên luôn luôn giữ hơi nóng. Chỉ có một tủ lạnh duy nhất của trại được để trong một góc phòng. Trên vách có treo một tấm bản đồ của Hoa Kỳ, "vùng đất hứa". Éric Cheyssen có được 3 người Việt Nam phụ giúp đang tuyển lựa nhanh những bệnh nhân nào mà tình trạng cần phải được nhập viện thì mới đưa họ xuống con tàu. Trong số nầy có một em bé còn bú , một tháng rưỡi tuổi, ốm tong ốm teo. Em bé nầy dù có được mọi thứ săn sóc cũng đã qua đời ngày hôm sau.
Tôi ở lại trên đảo để đi quan sát các căn trại tỵ nạn. Ủy ban chỉ định cho một thông dịch viên đi theo tôi và chúng tôi bắt đâu đi xem cái chợ dọc theo bãi cát chánh. Ở đó là một sự ngạc nhiên bất ngờ. Tôi chỉ được biết sau nầy thôi là ở Bidong người ta phải cẩn thận không nên tin vào những cái vỏ bên ngoài. Chợ có nhiều sạp hàng nhỏ, ở đó người ta thấy nào là đồng hồ, rau cải, trái cây đủ loại như nho, bôm, lê, các loại dầu thơm rẻ tiền, thịt, cá, bàn chải dùng để chải đầu, dụng cụ, áo quần, kiếng soi mặt, kẹo, bánh tây, hộp nước uống Coca Cola, Seven-Up, thuốc trừ muỗi…. Hình như người ta có thể tìm thấy đủ thứ các loại mặt hàng thượng vàng hạ cám… Nhưng cái chợ bé nhỏ nầy do các người buôn lậu cung cấp hàng chỉ là để lừa thiên hạ thôi. Tất cả đều đắt kinh khủng, chỉ có một thiểu số dân tỵ nạn nào còn giữ được một ít tiền đem theo mới có thể lợi dụng được một vài món hàng từ ngoài biển mang tới. Còn thì tất cả những người khác chỉ biết nhìn và ước mơ thôi.
Đi xa hơn chút nữa chúng tôi lọt sâu vào một mê hồn trận không tên, toàn là đường mòn ngoằn nghoèo đầy rác rến, lều trại loạn xạ khập khểnh dựng lên vô tổ chức quanh các thân cây, các hốc, các mỏm đá, khắp nơi đầy rẩy các giếng đào bừa bãi tìm nước xài nước uống (vì quá thiếu), đầy trẻ con chạy tung tăng vọc cát vọc bùn lầy ồn ào với tiếng la tiếng hét gào. Đâu đâu củng rải rác đầy những vũng nước ứ động hôi hám ghê tởm đầy ruồi nhặng côn trùng bu quanh.Trong các lều sàn xiêu vẹo ngổn ngang đầy cả triệu loại vật dụng chấp vá hổn tạp, coi như gia tài duy nhất của mình, các ông thì nằm chồng chất lên các vạt tre ngủ hay trên võng buồn bã kẽo kẹt đưa qua đưa lại nhìn ra ngoài với đôi mắt mệt mỏi. Ở đây không có sự khốn cùng nào được bộc lộ ra ngoài. Mọi người đều cố gắng giữ tư cách của mình. Không một ai chìa tay ra để xin xỏ gì hết.
Tôi bước đi theo các con đường dơ dáy ngoằn nghoèo dẫn đến khắp mọi nơi. Đến đâu cũng thấy toàn người là người tua tủa ra từ mọi hướng như vòi bạch tuộc hay râu sứa biển vậy. Trong những tháng đầu tiên ở trại tỵ nạn từ tháng 7 đến tháng 12 năm 1978, ủy ban đã định vị rất rõ ràng các khu nằm trải ra trong phần đầt bằng phẳng của hòn đảo và đã cố thử đề ra một kế hoạch chỉnh trang lại bằng cách gom các thuyền nhân lại, nhưng lại có quá nhiều vấn đề , vì các gia đình đi rải rác phân tán trên nhiều tàu thuyền khác nhau . Bây giờ, gần như hằng ngày đều có cả trăm thuyền nhân đến, các trại lấn dần ra khắp nơi gậm nhấm gần hết đồi núi, chiếm luôn lên các đỉnh , do đó ủy ban phải bỏ hết ý định quy hoạch tổ chức thành làng tỵ nạn. Cả cánh rừng cũng vậy, cây càng ngày càng bị đốn đi đến độ chỉ còn lại đất đá trơ trụi nhanh chóng. Vì cây là vật liệu chánh, Hội Hồng Thập Tự không có gì gọi là vật liệu xây cất để cấp phát cho ai cả .
Tôi lại tiếp tục đi từ điểm nầy đến điểm khác, leo dốc xuống đồi chen lấn giữa đám người lúc nào và ở đâu cũng đông nghẹt dù ở các hang hốc nhỏ hẹp cũng vậy. Không có một chỗ nào nghỉ ngơi coi như là vắng vẻ được. Đã không có cửa ra vào, lại không có cửa sổ, không có tường vách gì cả. Ai đứng ngồi hay làm gì bất cứ ở đâu cũng nằm dưới con mắt của người khác hết, từ những chuyện ăn, ngủ, hay đi tiêu, tiểu tiện cũng vậy cả… rất tự nhiên. Không có cách gì gọi là cách ly riêng lẽ được hết. Thật là một cuộc sống đúng hết nghĩa của hai chữ công cộng. Một cảm giác thật lá quá tồi tệ khi cá nhân con người không còn giữ được một sự kín đáo riêng lẻ nào cho mình được nữa hết.
Trên con đường tôi đang đi, có hằng trăm bàn tay nhẹ nhàng níu tôi lại để trao cho tôi những lá thư kêu cứu đến bạn bè, cha mẹ anh em cho đến kẻ sơ giao chưa từng biết ở nước ngoài. Người ta viết ngoằn nghoèo vội vàng những tín hiệu hay những lời van xin tuyệt vọng trên những mảnh giấy đủ loại, gởi cho bất cứ người nào mà họ nhớ ra đâu đó … một người Pháp, một người Mỹ hay một người Việt Nam nào đó mà tình cờ được gặp ở đâu đó ở Sài Gòn hay ở bất cứ ở đau mà họ còn nhớ tên….Tất cả những lời kêu cứu đó, hằng ngàn loại… ai đi viếng trại nầy cũng nhận được. Đối với thuyền nhân, đây là phương tiện mà họ xem là chắc chắn nhất để truyền tin tức giùm được ra bên ngoài, vì trong trại tỵ nạn, người ta cấm nhặt viết thư về Việt Nam , Cam bốt hay Lào. Còn đến các nơi khác thì phải viết bằng tiếng Anh, tiếng Pháp hay tiếng Trung Hoa và bao thơ không được dán lại để phải qua khâu kiểm duyệt. Những bức thư nầy không thấy có một bức nào đến được tay người nhận hết và ngược lại từ ngoại quốc cũng không có thư nào đến cho bất cứ người dân tỵ nạn nào cả. Do vậy mà các nhà báo, các bác sĩ và các viên chức thuộc Cao Ủy Tỵ Nạn đều biến thành người đưa thư không lương cho hằng chục ngàn người đang chờ và đang hy vọng… Bởi vì đối với thuyền nhân họ phài hứng chịu hết mọi thứ. Và nhất là những sự đau khổ về tinh thần..Đây là những đau khổ khó chịu đựng nhất cho thuyền nhân, một dấu ấn bi thảm nhất của trại tỵ nạn. Có rất nhiều gia đình bị phân ly, bị xé tan vụn ra hết. Có nhiều người phải trốn chạy khỏi Việt Nam, bỏ lại bên đó hết cha mẹ mà họ vẫn chưa biết rõ được số phận của chính mình rồi đây sẽ ra sao nữa. Có những người trốn chạy cùng với các con của họ trên cùng một chiếc tàu, còn vợ và các đứa con khác thì trên một chiếc tàu khác, đi sau, mà cho đến nay họ vẫn chưa biết được số phận của những người thân thương của họ hiện giờ ra sao. Có những người được một quốc gia nào đó nhận cho đi định cư còn gia đình vợ con thì lại được cho đi định cư ở một quốc gia khác. Và luôn luôn ai cũng thấp thỏm lo sợ triền miên, lo sợ kinh khủng, không biết mình và gia đình mình có được quốc gia nào nhận cho đi định cư hay từ chối không cho đi đây ? nhận cho được cùng đi một nơi hay bị xé lẻ ra đây ?
Tôi lại tiếp tục đi quan sát những chuyện não lòng không bao giờ dứt của thuyền nhân trong trại. chung quanh các giếng không có xây bờ, những lổ đào đơn sơ xuống bải cát, các bà và các trẻ con xếp thành hàng dài nối đuôi nhau trên các vũng nước, trong khi những người khác, kéo lên từng gàu nước quí báu phát cho từng người mệt nghỉ . Người ta tính ra có đến hơn 100 giếng trên đảo nầy rồi. Khi mà nước được phân phối một cách gắt gao như vậy thì giếng phải được đào khắp mọi nơi. Ngay ở giữa nhà cũng phải đào để khỏi phải đi xa. Nhưng bắt đầu từ đầu tháng năm, các giếng ở phía trên phần đất cao trên đảo đã coi như bị khô cạn, và các giếng ở dưới phần đất thấp thì thường là ô uế hay bị các cống rảnh làm vẩn đục.
Tôi đi chầm chậm qua các con đường mê đạo hư nát của trại. Khắp mọi nơi, dưới các lều trại, trong các con hẻm ngoằn nghoèo, cả đàn ông, đàn bà đều bận bịu với công việc để giúp cho họ sống còn ở đây. Nhiều người dùng thì giờ cả ngày để chẻ cây ra thành từng mảnh vụn để bán cho người ta nấu bếp. Người khác lại đốn cây trong rừng về dựng nhà không mệt mỏi cho những người mới tới để kiếm chút thù lao. cũng có một số khác tự biến mình thành lao công gánh nước cho những ai có tiền mướn họ. Vài người thợ làm bánh mì tìm cách xây lò tạm ngoài trời. Với các khẩu phần bột mì mua lại được của những người được Hội Hồng Thập Tự cấp phát đặc biệt, họ làm bánh mì nho nhỏ rất khéo cho các trẻ con đem đi bán trong trại. Lại có những thợ cắt tóc dựng lều cắt tóc cho bà con, và cũng có các tay thợ sửa đồng hồ cho những ai còn giữ được chưa bị cướp lấy mất. Rồi cũng có dân chài lưới đi đánh bắt cá ngoài biển về bán. Cũng có mấy người biết châm cứu cất trại tiếp tục trị bệnh, hành nghề… Các anh bán hủ tiếu, phở ngoài chợ, vẫn tìm cách nấu bán cho mọi người như thuở nào ở đường phố Sài Gòn , cũng có những người khác mở quán nhỏ bán càfé, chỉ khác nhau với những khúc cây cắt ngang làm bàn và làm băng ngồi. Đúng là một xã hội mới được tạo ra ở ngay Bidong nầy, với những người tỵ nạn giàu nghèo có đủ mặt. Nhưng giàu và nghèo có khác gì nhau đâu với những bộ quần áo dơ bẩn rách nát, cũng một màu đau khổ như nhau, và thật ra người ta chỉ sống với quần cụt và ở trần. Chỉ có mấy bà là thường giữ cái quần đen truyền thống mà thôi. Người ta khó mà phân biệt được một bác sĩ với một anh thợ, hay một ông kỹ sư với anh đánh cá, hay một giáo sư với anh nông dân. Cái cảnh đau khổ làm cho họ sống chung với nhau trong cùng những hoàn cảnh giống nhau và cùng một niềm hy vọng như nhau. Sự may rủi, sự tình cờ và các tên cướp đã tạo ra những người mới giàu, nghèo, khác hẳn trước kia hết. Phải đi sâu vào từng người mới thấy được sự biến dạng nầy.
Cùng với người thông dịch tôi đến một bãi cát thứ hai sau khi qua một ngọn đồi nhỏ. Cũng một quang cảnh như vậy thôi. Trẻ em chạy lăng xăng nô đùa với nhau trên cát, hoặc ra hơi xa tắm biển. Ở đây cũng còn cạn, ra xa 100 thước còn đứng dưới nước được .
Chúng tôi đi vào một trong những khu được coi là nổi tiếng nhất của đảo Bidong. Một quán càfé nhỏ có những Cô gái trẻ đến hát mỗi buổi chiều, những Cô nầy không bao giờ lỡ chân bước qua quán xá bên bờ bên trái của hòn đảo. Có bàn và băng ngồi đóng bằng ván tuy là thô sơ nhưng có được một tấm bạt che mưa che nắng. Lại có một bàn nhỏ ở một góc nhà để tính tiền, trên đó có nhiều hộp nước coca và hơn thế nữa ở một góc nhà lại có một máy ra diô- cát sét mua lại của bọn buôn lậu Mã Lai. Suốt ngày dài trong khi chờ đêm đến hay các Cô ca sĩ tới , ông chủ quán cho hát lại những bản nhạc Việt Nam thâu được trong băng mà ông giữ chặt không bao giờ rời. Sau khi con tàu bệnh viện đến đảo, các bác sĩ đã có đến đây một buổi tối để giải trí và để biết qua Bidong hơn là nghe các bệnh nhân của mình thuật lại. Hình như cảnh sát không cho các bệnh nhân đến đây.
Chúng tôi lại đi lên một con đường khác, Ở đó tôi thấy một vài căn nhà mà lối trang trí khác hẳn với tất cả những nhà lụp xụp của các nơi khác trên đảo. Có một cái nhà được trang trí như một cây thông Giáng Sinh làm bằng các bao thuốc lá đủ hiệu hết.. Giống như các tràng hoa dài nhờ gió đưa qua đưa lại làm đẹp mặt tiền nhà. Xa xa lại có một căn nhà cao trên nóc lại có một số cành cây mà lá được tỉa và đan lại như nhiều lượn sóng biển. Một căn nhà khác thì lại có một mảnh vườn nhỏ như tấm khăn trên đó có trồng vài ngọn rau , có 4 cọc có căng dây tượng trưng làm rào ở trên.
Tôi lại tiếp tục đi viếng một vùng cao hơn, một vùng duy nhất ở trên đảo Đồi nầy nằm ở một góc cuối bãi và nhìn ra biển, đối diện với con tàu bệnh viện. Trước hết là có một cái chùa Phật Giáo nho nhỏ xây cất và trang trí rất khéo. Có một vị sư đang trụ trì, ở đó đang có nhiều phật tử quanh ông với nhang đèn và một số lễ vật trên bàn thờ. Ở Bidong nầy có lẽ "ngọn đồi tôn giáo" nầy là nơi mà các thuyền nhân có thể tìm được chút ít thanh thản nào đó mà thôi. Đây là "ngọn đồi hy vọng" của thuyền nhân. Hy vọng và uớc mơ là sẽ được ra đi một ngày nào đó !. Bên cạnh chùa là một nhà thờ Tin Lành, cũng rất là giản dị, và phía sau là nhà thờ công giáo, cũng xây cất bằng cây đan như lưới. Nóc thì cũng bằng cây tròn được lợp kín bằng mấy tấm bạt ny lông. Bên trong các em nhỏ đang lập lại các bài hát êm dịu dưới sự chỉ dẫn của một anh bạn trẻ. Trên ngọn đồi cao nầy có được nhiều cây cao có bóng mát, lại có một luồng gió mát mẻ rất dễ chịu. Ở đây không có đám đông dân chúng nào, và những ai có mặt ở đây đều đi đứng rất trầm tĩnh và chậm rải. Các nơi tôn nghiêm nầy được xây dựng lên do sự đóng góp và công lao của các tín đồ và do ủy ban phụ trách giúp đỡ.
Trên triền đồi thoai thoải nầy lại có vài phòng học được dựng lên với những phương tiện tạm bợ như cột, cây tròn, nylông và tôn. Hằng trăm trẻ em ngồi chùm nhum với nhau lại đứa nầy sát đứa kia, đang chăm chú học tiếng Pháp và tiếng Anh do những anh chị em thiện nguyện chỉ dạy. Nói được các loại sinh ngữ nầy là một nhu cầu cần thiết để có hy vọng có thể được rời khỏi Bidong nầy. Vì không có đủ chỗ nên các tốp học sinh phải tuần tự thay phiên nhau đến học và họ lại tìm thấy được ở đây chút ít những gì như là một đời sống bình thường. Cũng như bất cứ ở chỗ khác, họ tìm được lại nụ cười khi người ta nhìn họ học và tỏ ra không đến nổi nào gọi là nghèo lắm.
Dưới chân đồi thì lại chỉ có cát và sỏi. Chúng tôi lại đi qua những vũng lầy tối tăm ngoài trời, bước qua những tấm ván lót bừa bãi trên các vũng nước , đi vòng qua một chiếc tàu đánh cá bằng sắt duy nhất nằm mắc cạn trên bãi cát trong đó có vài gia đình đang dùng làm nơi tạm trú… sau đó cuối cùng chúng tôi trở lại cái đập chắn sóng nơi mấy anh cảnh sát đang ngồi vừa gọi là canh gát vừa lim dim đôi mắt ngủ gà ngủ gật ở đó.
Thế là chúng tôi được tận dụng được một buổi trưa lúc chúng tôi đang đứng ở cầu tàu, chờ chiếc tàu con thoi đến đưa chúng tôi về con tàu bệnh viện. Thình lình có nhiều tiếng la trên bãi và sau đó chừng vài giây là cả đám đông dân chúng chạy ùa xuống bãi cát và chỉ dừng lại ở mí nước. Hằng ngàn cánh tay hướng ra biển và lúc bấy giờ tôi mới thấy một chiếc tàu chở người tỵ nạn đang lắc lư chạy vào đảo . Phía sau lưng tôi, cảnh sát cũng chạy lại, vừa chạy vừa la hét in ỏi. Một toán khác thì dùng một hàng rào chắn bằng cây , chắn ngang bến tàu và sẳn sàng trong tư thế đón rước lô "tù tỵ nạn" tương lai của họ.
Chiếc tàu đến sát bãi từ từ. Lưu đến gần tôi lúc nào không biết. Nó nói ngay với tôi:
- "Anh đứng yên giùm ở đây đừng có đi nghen. Anh là người ngoại quốc duy nhất có mặt ở đây. Nhờ anh có mặt ở đây, các cảnh sát họ không dám ăn cắp hay đánh đập những người mới đến "
Tôi hứa với Lưu là tôi sẽ đứng ở đây, và sau đó chiếc tàu "thuyền nhân tỵ nạn" cập vào cầu tàu quá mạnh. Hằng trăm người đau khổ đang bị dồn ép trong tàu nhảy bừa lên cầu ván, ôm theo ba lô và túi hành lý của họ. Ngay tức khắc bọn lính Mã Lai đẩy họ về phía trước không khoan nhượng. Các bà thì rên rỉ, trẻ con thì khóc lóc. Tất cả đều có vẻ mệt lả người , dơ dáy và đói khát. Một bà lớn tuổi, rất đứng đắn, đứng gần bên tôi, lập đi lập lại mãi: "Tôi quá mệt, tôi quá mệt rồi.". Một tình trạng vô trật tự không tả được đang diễn ra trên cầu tàu, ở đó có đủ thứ, nào nồi niêu soong chảo, nào chậu, nào là thùng giấy, nào bi đông đựng nước. Mấy anh cảnh sát xuống lục lọi khắp nơi trên tàu, vốn quá dơ bẩn, không biết để tìm những gì mà họ muốn. Thỉnh thoảng họ lại nhìn tôi. Rồi họ bắt những người tỵ nạn quỳ xuống, tất cả thành hai hàng dọc theo cầu tàu, như những tù binh. Dĩ nhiên các thuyền nhân đều ngoan ngoãn tuân lệnh, có mấy người chấp hai tay sau ót như là một thói quen tự bao giờ.
Cuộc khám xét bắt đầu, không một ai qua khỏi, Khám xét một cách nhục nhã và thật tỷ mỉ, tất cả những gì được coi và được dùng như vũ khí đều bị tịch thu. Cảnh sát đều biết rằng trại tỵ nạn nầy có quá nhiều người, quả thật như một nồi nước đang sôi, do vậy họ cũng phải cẩn thận. Lần lượt từng người một, các thuyền nhân được tập hợp lại trên bãi cát để được kiểm tra phần lý lịch. Có thể may ra trong vài giờ nữa họ mới được cho ăn uống.
Chiếc tàu nầy là chiếc thứ nhất trong một nhóm 3 chiếc đã rời khỏi Việt Nam trong vài ngày qua. Họ đã bị bọn cướp biển chận cướp ngày hôm qua, nhưng may mắn họ đã trốn thoát được . Nhưng họ không có tin tức gì của 2 chiếc tàu kia. Tôi nghĩ rằng nếu hai chiếc tàu kia là hai tàu gì đó của Pháp hay của Hoa Kỳ thì chắc chắn sẽ có một sự chuẩn bị để đi tìm kiếm ngay.
Tại bót kiểm soát có một sự náo nhiệt hơi bất thường.Tôi tiến tới đó để xem coi cái gì đã xảy ra. Một người đàn ông và một người đàn bà đang khóc lóc ở đó, bên cạnh có hai bao lớn đựng bình điện xe hơi. Lưu cho tôi biết là có một người nào đó trên tàu đã nói là các bình điện đó đựng 3000 lượng vàng do vậy bọn lính Mã Lai bu chung quanh như những con ruồi điên. Lưu và một người nữa có trách nhiệm trong ủy ban của đảo, một lần nữa yêu cầu tôi hãy ở lại, vì họ sợ là số vàng kia sẽ bị cảnh sát giữ lại.
Nhưng, nếu tôi dính vào vấn đề nầy, tôi sẽ đụng chạm rất nặng với họ .Có thể đi đến cấm chỉ tôi không cho tôi ở trên đảo đến 2 ngày. Vị thuyền trưởng, với tài ngoại giao của ông ta, có thể dàn xếp nội vụ được và chúng tôi sau nầy mới biết được là số 3000 lượng vàng đó trị giá gần 3 triệu quan Pháp nặng, không hơn không kém chỉ là kết quả của sự làm tiền của người chủ tàu qua nhiều chuyến chuyên chở người tỵ nạn đến Mã Lai mà thôi. Đối với ông ta đây là chuyến chót nên ông ta có ý định mang số vàng nầy đi lập nghiệp ở Úc Châu. Nhưng các thuyền nhân buộc ông ta phải ghé lại Bidong vì ai cũng sợ là đi nữa sẽ không đến đâu hết. Và cho đến giờ nầy người ta không biết số 3000 lượng vàng đó vốn là vàng bóc lột của thuyền nhân nó đã ra sao rồi.
Xin đón xem tiếp Chương 13 :
"DƯỚI ÁNH MẶT TRỜI CỦA THIÊN ĐƯỜNG"