CHƯƠNG
XXI
29 THÁNG 4 :
TẮT HẾT
ĐÈN
Ngày 29 tháng 4 1975
Vào lúc 4 giờ chiều,
pháo binh Bắc Việt càng bắn càng chính xác, tác xạ tập trung phần lớn vào các đường
bay của phi trường Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng Tham Mưu Miền Nam Việt
Trời
sáng dần... Các phi công của những phi cơ F.5 và A.37 cuối cùng cất cánh lên được
và bay đi luôn không trở lại. Các phi công nầy giống như những phi công còn
muốn chiến đấu đều không điều động được phi cơ vì vướng hằng trăm binh sĩ Miền
Đại
tá Không Quân Hoa Kỳ John Madison, một trong những sĩ quan trong Ban Giám Sát
Hiệp Định Ba Lê đã gởi một diện tín cho phái đoàn quân sự cộng sản ở trại Davis
đang ẩn núp dưới hầm trú ẩn. Đại tá phản kháng về cuộc bắn phá phi trường, mà
ông mô tả như là một vi phạm đến quyền miễn trừ ngoại giao của các thành viên Ủy
Hội Quốc Tế và các phái đoàn quân sự 2 Bên và 4 Bên. Các đại diện của hai phái đoàn
Bắc Việt và CPLTCHMN ở trại
Tác
xạ của đại pháo 30 ly được các quan sát viên Bắc Việt điều chỉnh,
đều rơi vào khoảng 4 cây số ở hướng Bắc của phi trường. Đối với tướng Văn
tiến Dũng và ông Lê đức Thọ, tình hình rất là tế nhị. Một mặt, phải để cho người
Mỹ ra đi, do đó không nên làm trở ngại cho các cuộc hành quân di tản. Mặt khác,
cả hai người cộng sản có trách nhiệm , theo chỉ thị của Hà Nội , đều muốn giữ
áp lực để người Mỹ ở Sài Gòn cũng như ở Hoa Thạnh Đốn đều phải hiểu rằng
"không bao giờ có chuyện thương thuyết". Bộ đội Bắc Việt nhận được
lệnh không được đụng đến phi cơ và trực thăng của Hoa Kỳ , trừ trường hợp bị họ
tấn công. Ngoại lệ có một vài trường hợp, còn thì bộ đội thi hành lệnh đúng đắn.
Tướng Dũng có thể luôn luôn sợ một sự can thiệp của Không Lực Mỹ từ Thái Lan.
Trong giai đoạn nầy, nếu có nhiều người Mỹ bị thương hay tử thương thì có thể
bắt buộc Ngũ Giác Đài phải can thiệp ồ ạt. Các nhà lãnh đạo Bắc Việt không ý
thức được là quyền hành quân sự ở Hoa Kỳ phải tùy thuộc vào quyền uy dân
sự đến mức độ nào. Song song đó, người
Mỹ cứ mãi đi tìm hiểu những phe phái hay rạn nứt trong ban lãnh đạo Hà Nội mà
vẫn không bao giờ thấy được sự đồng tâm nhất trí giữa hai cánh quân sự và chánh
trị trong thủ đô Bắc Việt .
Tướng
Nguyễn cao Kỳ lái chiếc trực thăng của ông ta lên, bay chung quanh Sài Gòn, ông
thấy một pháo đội Bắc Việt đang tác xạ, mỗi phút một phát. Ông bắt liên lạc được
với một đội Skyriders đang bay từ Cần Thơ về :
- "Đây Nguyễn cao Kỳ đây, phải tiêu diệt
các pháo đội địch nầy.
- Nhận rõ, nhưng tôi chỉ còn có một quả bom,
sĩ quan chỉ huy trả lời.
Đúng là giờ đã điểm, đối với những chiến trận
danh dự không đáng kể !
5 giờ 45 giờ
Sài Gòn:
Ông Martin đến tòa đại sứ . Lệnh cuối cùng của Tư
Lệnh Không Quân Miền Nam Việt
6 giờ, giờ
Sài Gòn (5 giờ, giờ Hà Nội):
Tại Bộ
Tư Lệnh ở Bến Cát, cách thủ đô Sài Gòn 40 cây số về hướng Bắc, tướng Dũng nhận được
một công điện của Chánh trị Bộ, khen ngợi bộ đội của ông ta về sự tiến quân
trong những ngày cuối cùng vừa qua. Chánh trị Bộ ra lệnh : tiến nhanh để
"chiếm lấy sào huyệt cuối cùng của địch"
Có rất nhiều công điện và điện thoại tiếp nối nhau giữa Nhà Trắng, Bộ
Ngoại Giao, Ngũ Giác Đài (Bộ Quốc Phòng) ở Hoa Thạnh Đốn, Bộ Tư Lệnh Á Châu
Thái bình Dương ở Honolulu, tòa đại sứ và các cơ quan trực thuộc của Phòng Tùy
Viên Quân Lực ở Sài Gòn . Các sự việc còn đi nhanh hơn là công điện. Một bức điện
tín của Bộ Ngoại Giao xác định rõ:
"
Kiểm thính truyền tin được giữa các cấp chỉ huy Bắc Việt nói rõ tấn công ba mặt
vào Sài Gòn , ngày giờ không rõ. Với khả năng chủ động của các đơn vị, nếu có cơ
may xảy đến."
Các tin tức nầy đã được Cơ Quan An Ninh Quốc Gia
Hoa Kỳ phối kiểm. Một xác định khác :Bắc
Việt dự trù phải chiếm Sài Gòn cho ngày sinh nhật của Hồ chí Minh, 19 tháng 5
"với khả năng bắt đầu tấn công vào những ngày cuối của tháng 4." Hôm
qua, kiểm thính cũng xác định là sư đoàn 7 Bắc Việt có nhiệm vụ phải chiếm
lấy đài truyền hình Sài Gòn.
7 giờ, giờ
Sài Gòn (19 giờ, giờ Hoa Thạnh Đốn ):
Hội đồng An Ninh Quốc
gia Hoa Kỳ nhóm họp, dưới quyền chủ tọa của Tổng Thống Ford , với sự hiện diện
của ông Henry Kissinger (Ngoại Giao), ông Janes Schlesinger (Quốc Phòng) và các
phụ tá của họ, Chủ Tịch các Tham Mưu liên Quân, tướng George Browne, và ông
William Colby, Giám đốc CIA. Ông Colby xác nhận là trong 3 ngày nay không có
một hy vọng nào để quân bình lại tình hình quân sự . Cuối cùng giờ nầy mọi người
đều đồng ý. Nhưng mà sẽ ra lệnh gì cho Sài Gòn đây ? Ông Kissinger lưỡng lự.
Theo ông ta thì trong giờ phút nầy là phải tiếp tục di tản người Mỹ và người
Việt
Và còn nhân viên của tòa đại sứ thì sao ? Phải đưa
họ đi với tốc độ 150 người trong ngày, trong đó có 1/3 nhân viên và viên chức
của cơ quan CIA. Ông Frank Snepp biết rằng ông ta phải là người đi sau cùng.
Từ
Honolulu, Đô Đốc Noel Gayler vốn biết rõ tính tự ái của ông Martin nên đã có điện
tín như sau :
- " Tôi đề nghị là ông nên quyết định di tản bây giờ tất cả
nhân viên người Mỹ, trừ các thành viên nào mà ông muốn giữ lại thường trực tại
tòa đại sứ với ông ..." .
Tướng Homer Smith thì được phép của Đô Đốc
Gayler đi theo các phi cơ của người Việt Nam và người Mỹ. Bằng mọi giá, ông
không muốn các tướng lãnh hay sĩ quan cao cấp Hoa Kỳ bị rơi vào tay của cộng
sản . Ông ra lệnh cho họ phải rời ngay Sài Gòn . Ông nhấn mạnh là tình hình
quân sự rất là nghiêm trọng. Ông đã đọc được các điện tín của ông Polgar liên
quan đến khả năng của một cuộc dàn xếp chánh trị : "Các tin tức mà tôi
đã có hoàn toàn không phù hợp với quan điểm sảng khoái của ông Polgar"
Về
ông Polgar, Đô Đốc dùng một từ ngữ cũ kỹ và khinh khỉnh hết sức thanh lịch :"Tôi
có cảm tưởng là ông ta không thực tế", ông ta không thực sự ở trong sự
kiện, hoàn toàn không phải là người trong cuộc. Theo tin tức của Đô Đốc thì các
anh bộ đội Bắc Việt đã ở cách phi trường Tân Sơn Nhất không
đến 2 cây số. Họ xử dụng hỏa tiễn của họ rất có
hiệu quả. "Họ đã bắn hạ 3 chiếc phi cơ trong hai giờ
sau cùng."
Pháo binh Bắc Việt
tiếp tục bắn vào vùng phi trường.
Một sứ giả của Tổng Thống Dương văn Minh trao
một bức thơ cho tòa đại sứ Hoa Kỳ :
-" Thưa ông Đại sứ thân mến,
Tôi kính cẩn yêu cầu ông ra lệnh cho các nhân
viên văn phòng của tướng Smith phải rời khỏi Việt Nam trong vòng 24 tiếng đồng
hồ bắt đầu từ ngày 29 tháng 4 1975 để cho vấn đề hòa bình ở Việt Nam có
thể được
giải quyết nhanh chóng."
Ông
Martin đang đau vì những dị chứng viêm phế quản. Với một giọng khàn khàn ông đọc
cho thơ ký một bức công hàm trả lời:
- " Thưa Tổng Thống thân mến,
Tôi đã nhận được thơ của Ngài và xin báo cho Ngài rõ là tôi đã cho
lệnh theo đúng công hàm vừa qua của Ngài
"
Các
tin tức từ Tân Sơn Nhất cho biết là đâu đó đã có một vài quân nhân Miền Nam
Việt
- " Tôi tin là Ngài đã cho lệnh quân lực
của Chánh Phủ bằng mọi cách sẽ hợp tác để cho sự ra đi của nhân viên của phòng
Tùy Viên quân sự được dễ dàng, và hoàn toàn được an ninh
Tôi cũng hy vọng là Ngài sẽ can thiệp với
"phía bên kia" để giúp cho vị Tùy Viên Quân sự và cho nhân viên của
ông ta được ra đi trong trật tự và an toàn tuyệt đối.
Kính chúc Ngài,
Graham
Martin, Đại sứ Hoa Kỳ
Ngay sau khi được biết tin nầy, có nhiều người
xác nhận là việc nầy là một cuộc dàn xếp lòng vòng giữa hai ông Dương văn Minh
và Martin : tức là do tòa đại sứ yêu cầu ông Minh.
Ông Marton ra lệnh cho tướng Homer Smith có
những biện pháp để di tản tất cả nhân viên của ông ta. Đây là lần đầu tiên mà tướng
Smith nhận một lệnh tương tự từ hai cấp chỉ huy thuộc hai hệ thống quân giai
của mình, Đại sứ Martin và Đô Đốc Gayler. Như vậy là chỉ có Thủy Quân Lục Chiến
còn ở phi trường với nhiệm vụ bảo vệ an ninh cho cuộc hành quân di tản mà thôi.
Ông Martin khẩn cầu ông Kissinger cho ông được ở lại Sài Gòn "ít nhất
trong một hai ngày để cho sự ra đi của chúng ta có một phẩm cách nào đó.
"Ông đại sứ giữ lại hai trực thăng của Hàng không Air América để có thể đi
nhanh, khi cần thiết. Sau đó tòa đại sứ Pháp sẽ là người đại diện cho quyền lợi
của Hoa Kỳ . Ông Martin thích có được một sự "chuẩn y nhanh chóng".
Trong yêu cầu của ông Dương văn Minh, ông Martin đã thấy được một lợi thế chánh trị-ngoại
giao: người ta loan báo sự triệt thoái của người Mỹ " theo thỉnh cầu của
dân chúng Miền Nam Việt
Ông Kissinger nhờ phụ tá đặc biệt của Bộ Ngoại giao, ông Lawrence
Eigleburger, nghiên cứu tình hình . Ông nầy thảo ra một báo cáo không có nhặp
nhằng. Nếu người ta để nhân viên ngoại giao Hoa Kỳ ở lại Sài Gòn thì dù muốn dù
không cũng có vẻ như là chúng ta nhìn nhận Chánh Phủ tương lai ở đó . Và vì thế
ông Kissinger quyết định ngay : đóng cửa tòa đại sứ .
8 giờ 30, giờ
Sài Gòn:
Ông
Martin họp tất cả các cộng sự viên chính lại, trong đó có ông Wolfgang Lehmann,
Thomas Polgar, Alan Carter, và đại tá George Jacobson, một phụ tá của tòa đại
sứ .
Ông Polgar nghĩ rằng trên kế hoạch chánh trị chưa
có gì mất mát hết. Ông nói với ông Snepp là cuộc dội bom ở phi trường là một
"chỉ dấu quan trọng" thuận lợi. Một vài viên chức của cơ quan CIA
cũng như ông Snepp đều nghĩ rằng "một chỉ dấu vừa quan trọng vừa có ý
nghĩa là một viên đạn bắn vào đầu"
Người ta xem xét tình hình nhất là trên phương diện quân sự . Hôm qua,
người ta dư trù là ngày hôm nay phải di tản được 10 ngàn người với trên 50
chuyến bay của vận tải cơ C.130. Làm sao thực hiện đây ?
Pháo binh Bắc Việt đã giảm tác xạ trên phi trường.
Người ta thấy có thể tiếp tục các chuyến bay được. Các viên chức Hoa Kỳ đã khám
phá ra là người ta còn khiển dụng được một số xà lan có máy đang đậu ở bến cảng
Sài Gòn, nhất là ở Tân Cảng.
Từ Tân Sơn Nhất, ông Homer Smith cho biết là bắt
đầu từ giờ nầy các phi đạo không còn xử
dụng được nữa cho các loại phi cơ cánh quạt, hay phản lực. Do đó ông ta đã cho
nhiều đoàn xe buýt và trực thăng đi gom người Mỹ đến phi trường , và tập trung
người tỵ nạn Việt
- Chúng tôi không còn chiếc trực thăng nào, thưa
Đại sứ.
Ông Martin lạnh lùng nhìn ông Polgar:
- "Vậy là tôi sẽ đi ra phi trường bằng đường
bộ. Nó có thể cho tôi thở được một ít không khí của thành phố. Nhờ gọi giùm tài
xế và chiếc xe của tôi.
Đại tá Jacobson can thiệp vào :
- "Thưa Đại sứ, rất là nguy hiểm. Theo một
vài nguồn tin thì có vài đơn vị cộng sản
đã đột nhập được vào Sài Gòn.
Chiếc xe Chevrolet (có chắn đạn) màu đen
của Đại sứ đã sẵn sàng. Ngay như những
người không thích ông Martin, những người đã biết ông là người có trách nhiệm đối
với những người trể nải trong di chuyển, cũng phải tự nhủ :ông già nầy ngon
thật !"
Chiếc Chevrolet chạy đi, không có mang cờ hiệu, có 2 chiếc xe hộ tống
chở đầy Thủy Quân Lục Chiến súng cầm tay sẵn sàng nhả đạn. Xe phải ngừng lại ở
bên ngoài Tân Sơn Nhất . Một ông đại sứ Hoa Kỳ mà cũng phải chờ đợi !. Các sĩ
quan và hạ sĩ quan của Miền
Tưóng
Trần văn Minh, Tư Lệnh Không Quân và một bộ phận Tham Mưu Không Quân Miền Nam
Việt
Ở
- "Sao
đây ? các phản lực tiềm kích hộ tống đâu ? Có gởi tới hay không ?
Tướng Browne Chủ Tịch các ban Tham Mưu trả lời
ngay :
- Không có.
9 giờ 30, giờ
Sài Gòn :
Một
nhóm sĩ quan thuộc cơ quan tình báo Việt
- "Ông hãy điện thoại về Bộ Tổng Tham Mưu .
Họ phải có biện pháp cần thiết để vãn hồi trật tự cho phi trường.
Tại
Bộ Tổng Tham Mưu lại không có ai trả lời. Ông Eric Von Marbod xuất hiện, mặc bộ
đồ bay, súng liên thanh trên vai, một quân phục không bình thường cho một ông
phụ tá của Tổng Trưởng Quốc Phòng . Ông Martin hỏi :
- " Eric, anh có nhiều bạn bè ở Bộ Tư Lệnh
Không Đoàn số 7 ở Thái Lan phải không ? Anh có thể xin cho vợ tôi một chiếc phi
cơ hay không ?
Ông Eric nổi giận:
- " Không còn có vấn đề phi cơ nữa đâu. Vã
lại, nếu bây giờ mà phi cơ có đáp xuống được thì tất cả người Việt
Ông
Martin đi vào văn phòng của tướng Smith. Dùng chiếc điện thoại đặc biệt, ông
gọi Nhà Trắng, nói chuyện với ông Kissinger và với tướng Brent Scowcroft. Sau đó ông trở lại nói với tướng Smith:
- "Hoa Thạnh Đốn đã đồng ý. Nếu chúng ta có
thể vãn hồi trật tự ở phi trường và giải tỏa được các phi đạo, thì chúng ta
tiếp tục cho di tản bằng phi cơ. Còn nếu không được thì cứ mặc kệ. Bây giờ, anh
phải biết là mọi người ở Ngũ Giác Đài, ông Schlesinger, các Tham Mưu Trưởng và
Bộ Tổng Tư Lệnh Lực lượng Á Châu Thái bình Dương đều sắp đòi hỏi chúng ta phải cho đi nhanh chóng những người Mỹ,
và bỏ lại những người Việt
ở đây,
chúng ta phải di tản họ tối đa, càng nhiều càng tốt..
Ngoài thành phố, các cuộc "bốc đi" bằng trực thăng không được
trôi chảy lắm vì trực thăng phải tìm các địa điểm tập trung ở Sài Gòn . Các
trực thăng lại không hoàn toàn sẵn sàng. Có 4 chiếc được phái cho lực lượng Dù
Việt
Trên
sân bay rộng lớn, cảnh sát và quân nhân Việt
Ở
tòa đại sứ Hoa Kỳ , các nhà ngoại giao và các nhân viên lo đốt hồ sơ sau khi đã
cho vào máy nghiền, phá hủy các máy đánh chữ, các máy thu thanh,, các máy thu
và phát thanh. Cơ quan CIA có những hồ sơ lưu trữ trong văn phòng của ông
Snepp, trong phòng kiểm thính truyền tin, và trong một căn nhà tiền chế ở
ngoài. Không có một người nào nghĩ tới phải có bản thứ hai cho những hồ sơ nầy,
trong những nơi làm việc của sở tình báo Việt
Ông Snepp tiếp tục tìm kiếm tin tức mới đến và làm một bản phân tích.
Một sự thật hiển nhiên : cộng sản có ý định phải chiếm Sài Gòn, và chiếm nhanh.
Trong các sân của tòa đại sứ, có nhiều
người Việt
Ông Martin đã ra lệnh cho tất cả các chủ nhiệm phòng sở phải trở về tòa
đại sứ . Ông Alan Carter không muốn hay không dám trở lại sở Thông Tin Hoa Kỳ .
Ở đó, các nhân viên người Việt của ông đang chờ đợi các danh sách di tản mà
chúng vẫn không thấy tới. Bây giờ thì những người Việt đó không còn thì giờ để đi
bộ xuống bến tàu, nơi có những chiếc xà-lan đang tách bến, mà còn nhiều chỗ
trống. Một không khí vô trật tự và quá tự do lạ lùng, bất lực và hèn nhát bao
trùm khu nầy. Đây là sự hoãng loạn mà tòa đại sứ từng quá lo sợ trong mấy tuần
nay.
Ông
Martin có đường dây điện thoại trực tiếp với đồng nghiệp người Pháp của mình
hoặc qua bức tường ngăn cách giữa hai tòa đại sứ . Ông gặp ông Mérillon. Ông
nầy đang tiếp chuyện với ông Dương văn Minh. Ông Minh có đem tin gì tốt đến
không đó ?
- "Không có gì mới cả,
ông Mérillon nói. Ông Minh đã thăm dò CPLTCHMN nhưng họ chưa có trả lời.
Ông Martin hỏi ông Mérillon xem ông ta, trong cương
vị đại sứ Hoa Kỳ , có thể đến gặp người của CPLTCHMN được không ?
- Để tôi xem lại coi.
Ông Martin định cho ông Mérillon hay gởi cho ông
nầy một món quà :một ngôi miếu bằng sành của Tàu. nhưng hai người hình như
không hiểu nhau lắm.
10 giờ, giờ
Sài Gòn:
Đồng mỹ kim lên giá từ 4500 đồng đến 5000 đồng
trong vòng 2 tiếng đồng hồ. Dân chúng ở thủ đô Sài Gòn đã nghe được ông Thủ Tướng
Vũ văn Mẫu lên tiếng đòi hỏi tất cả những người Mỹ phải ra đi, như ông Dương văn
Minh đã yêu cầu.
Sự hiện diện của Đại sứ Hoa Kỳ ngoài phi trường
đã được báo cáo . Người ta tưởng rằng ông đã ra đi. Đám đông người chung quanh
tòa đại sứ càng ngày càng đông thêm lên.
10 giờ 40:
Từ phi trường tướng
Homer Smith điện thoại cho Đô Đốc Gayler ở
- " Phi
cơ không còn xử dụng các phi đạo ở phi
trường được nữa.
- Việc nầy tôi đã tin chắc như vậy từ lâu rồi,
Tôi sẽ gọi các trưởng ban Tham Mưu ở Ngũ Giác Đài để
nói cho họ biết là phải qua "khả năng
4" Đô Đốc Gayler trả lời.
Khả năng 4, đó là kế hoạch di tản bằng trực thăng
Một cuộc bàn cãi sôi nổi, phi lý và quá nghi
thức đã diễn ra trên đường dây điện thoại trong Sài Gòn cũng như ở Thái bình Dương
và Bắc Mỹ. Rất lễ độ, tướng Homer Smith cho ông Martin biết là mình được khuyên
nên áp dụng "khả năng 4 ". Bây giờ ông đại sứ mới chịu tin là khó
tránh được vì sự mất trật tự sẽ ngăn cản mọi công tác bốc người đúng phương
pháp.
- "Không phải Chủ Tịch các Ủy Ban Tham Mưu
quyết định về "Khả năng 4", ông Martin xác nhận.
10 giờ 48,
giờ Sài Gòn: (22 giờ 51 , giờ Hoa Thạnh Đốn :
Lệnh phát ra từ ông Kissinger : "thi
hành kế hoạch Frequent Wind lúc 11 giờ 51"
Ngoài khơi Việt Nam ,
trên chiến hạm Blue Ridge, đề đốc Donald Whitemire, chỉ huy trưởng "lực lượng
đặc nhiệm 76" cũng có nhiều vấn đề . Người ta có cả thảy là 85 chiếc trực
thăng. Người ta phải tiến hành các cuộc kiểm tra thường lệ và vì các trực thăng
không cùng ở trên một chiến hạm, nên người ta phải đưa Thủy Quân Lục Chiến qua
trực thăng hay đưa trực thăng qua cho Thủy Quân Lục Chiến. Rồi phải phối hợp
giờ cất cánh cho trực thăng và giờ cất cánh của các phi cơ tiềm kích hộ
tống từ Thái Lan cho được đồng bộ.
Lúc
ông Tổng Trưởng Ngoại giao ra lệnh bước sang kế hoạch của "Khả Năng
Bốn" vào hồi 11 giờ 51, thì ông nghĩ đó là giờ Sài Gòn . Các vị chỉ huy
quân sự khác nhau, Bộ Tư Lệnh Thái bình Dương, Bộ Tư Lệnh của đô đốc Whitmire,
của Không Lực ở Thái Lan, của Tùy viên Quân sự ở Tân Sơn Nhất , của tòa đại sứ
Hoa Kỳ ở Sài Gòn ..v.v.. đều tự hỏi đó là giờ nào : giờ của Hoa Thạnh Đốn theo
kinh tuyến
11 giờ 30,
giờ Sài Gòn :
Đài
phát thanh Hoa Kỳ như đã dự trù, chơi liên tục bản nhạc "Tôi đang mơ về
một Giáng Sinh trắng"
Giám đốc đài truyền hình Việt
11 giờ 30:
Ông Polgar không tin là có một giải pháp chánh
trị . Ông đã nhận được nhiều cú điện thoại tất có ý nghĩa, trong đó có một là
của Tổng Thống Dương văn Minh:
- "Tôi muốn yêu cầu Anh một ân huệ cuối
cùng: di tản giùm một vài người thuộc gia đình tôi
- Rất đồng ý",
Polgar trả lời.
Một cú điện thoại khác, của nhóm Hung gia Lợi
thuộc Ủy Hội Kiểm soát Ngừng Bắn (CICS). Đã có rất nhiều tá người của họ bị kẹt
ở phi trường Tân Sơn Nhất . Đạn pháo của Bắc Việt đã phá hỏng một số xe của họ. Một số xe khác đã bị binh
sĩ Miền
- "Chúng tôi không có phương tiện chuyên
chở. Chúng tôi muốn đi ra khách sạn ở Sài Gòn ,
họ nói
Trong tòa đại sứ, người ta gặp nhan nhản các nhân vật người Việt. Cựu Cố
vấn quân sự của Tổng Thống Thiệu, ông Đặng văn Quang, đang đi tới đi lui trên
tầng thượng, trong chiếc áo mưa rộng thùng thình. Ông ngồi cách đại tá Toth của
Hung gia Lợi chừng vài thước, vốn đến đây để yêu cầu di tản người của ông ta ở
phi trường. Hoàng tử à ?, ông Polgar áp dụng một nguyên tắc: Người nào yêu cầu
tôi giúp đỡ
thì đáng được giúp. Và sau đó, có qua có lại, người
ta không bao giờ biết anh chàng Hung gia Lợi nào đó sẽ có gì hữu ích cho chúng
tôi hay không trong một giờ, một tuần lễ
hay một tháng nữa đây ? Còn ông Lehmann thì có tâm hồn ít nhạy cảm hay thấy xa
hơn ông trưởng cơ quan CIA. Nhân vật số 2 của tòa đại sứ từ chối không can
thiệp có lợi cho những người Ba Lan cuối
cùng vốn muốn được rời nhanh chóng khỏi Sài Gòn nên đến cầu cứu với ông. Ông Polgar tổ chức một đoàn 3 chiếc xe buýt đi
bốc những người Ba Lan và Hung gia Lợi từ phi trường đưa họ về khách sạn
Majestic ở thành phố.
Một
phát súng ân huệ đối với ông Polgar : nhà báo Malcolm Browne, người chơi thân
với các thành viên của CPLTCHMN ở trại
Davis mà anh ta cứ điện thoại cách 2 hay 3 giờ một lần, đã cho ông chủ nhiệm cơ
quan CIA biết là bọn Việt Cộng lần lần
bớt đi sự "nhạy cảm". Từ lịch
sự, họ trở thành quạo quọ đến ủ ê. Đó cũng là ý nghĩ của 4 vị cố vấn do ông Dương
văn Minh gởi tới trại
Ông
Snepp túc trực bên máy thu thanh, và kiểm thính được một lệnh của Bắc Việt mà
hình như họ sẽ bắn vào dinh Độc Lập chiều nay, vào lúc 17 giờ, giờ Hà Nội , tức
là 18 giờ giờ Sài Gòn . Hai trăm tràng !
Quá đủ để phá hủy tất cả ở trung tâm Sài Gòn , với các tòa đại sứ Hoa Kỳ và
Pháp. Ông Snepp nhào tới ông Polgar:
- "Đưa cái nầy ngay cho ông Martin."
Ông đại sứ chuyển ngay điện tín đó cho tướng
Timmes để ông nầy điện thoại cho ông Dương văn Minh.. Liệu Tổng Thống có thể
can thiệp với cộng sản để họ đừng có pháo vào Sài Gòn hay không ?
Về
chuyện nầy, ông Kissinger điện thoại ngay cho ông Martin:
- "Ông phải di tản hết, hết tất cả. Đây là
lệnh của đích thân Tổng Thống Ford, và phải di tản xong
trước khi
trời tối. "
Vị Tư lệnh phó của Hải Quân Việt
- "Chúng ta đi thôi, tướng Homer
quyết định như thế.
Ông ta đang chuẩn bị lên trực thăng thì có một
toán người tỵ nạn cuối cùng xuất hiện. Họ lên chiếc trực thăng của tướng Smith
và ông tướng nầy phải chờ đi chuyến khác.
Người ta rất cần được tăng cường ở tòa đại sứ . Sẽ lấy những người của
thiếu tá Melton. Một trung đội của trung úy Jay Roach, được trực thăng vận đến
tòa đại sứ .
12 giờ, giờ
Sài Gòn:
Chưa thấy
bóng dáng một trực thăng nào của cuộc hành quân di tản.
Xe buýt Mỹ cứ chạy khắp thành phố để bốc khách
di tản. Muốn có được sự cộng tác của cảnh sát và công chức ở phi trường, người
ta đã hứa là sẽ di tản họ luôn cả với gia đình.. Các xe buýt đầu tiên thuộc kế
hoạch "đêm Giáng Sinh trắng" chở người tỵ nạn đến Tân Sơn Nhất hồi 12
giờ 10. Không khí ở phi trường còn quá căng thẳng hơn ở chung quanh các bến tàu
vắng người . Có một vài vị thuyền trưởng Việt
12 giờ 15 :
Tin tức quân sự hình như càng ngày càng xấu. Hai
sĩ quan Bắc Việt, sư đoàn 70 và 968 đã đè bẹp sư đoàn 25 bộ binh ở gần Cũ Chi,
chỉ cách Sài Gòn có 30 cây số về hướng Tây. Ba sư đoàn Bắc Việt , sư đoàn 3, 9
và 16 đã cô lập sư đoàn 22 bộ binh . Sư đoàn nầy giữ vững được vị trí nhưng
không thể rút về thủ đô được . Chiến lược của tướng Dũng rất rõ ràng và linh động.
Ông ta để các sư đoàn cầm chân bao quanh các đơn vị Miền
12 giờ
30
Ba mươi sáu (36) chiếc trực thăng vận tải loại
lớn cất cánh từ chiến hạm Hancock, có trực thăng võ trang Cobra hộ tống.
Các trực thăng di tản nầy bay tới Sài Gòn làm 3 đợt,
mỗi đợt 12 chiếc. Chúng bay ngang qua Biên Hòa ở hướng Đông Bắc. Mỗi đợt đều
bay thành đội ngũ mỗi 3 chiếc hình chử V . Các phi công được lệnh trước tiên là
làm con thoi giữa hạm đội và phi trường để chuyên chở Thủy Quân Lục Chiến thuộc
toán an ninh bảo vệ. Tướng Richard Carey, chỉ huy trưởng Thủy Quân Lục
Chiến đã đồng ý với tướng Homer Smith là
phải tranh thủ thời gian, Tất cả các trực thăng đều bốc người tỵ nạn trên đường
về hạm đội. Từ 3 căn cứ Không Quân ở Thái Lan, các phi cơ tiềm kích Phantom
chuẩn bị để nhập vào các đợt trực thăng trong một hành lang giữa Sài Gòn và hạm
đội. Tất cả các chiến hạm của Hải Quân Hoa Kỳ đều nằm ở bên ngoài lãnh hải của
Việt
Từ
Bộ Tư Lệnh nầy đến Bộ Tư Lệnh khác, từ chiến hạm nầy đến các phi cơ hay trực thăng...
hệ thống truyền tin hết sức dày đặc, các điện thoại và điện báo hoạt động không
ngừng nghỉ. Đô đốc Whitmire, Tư Lệnh lực lượng đặc nhiệm có một danh hiệu
truyền tin được mã hóa rất bình dân là Jehovah.Tại Tân Sơn Nhất danh
hiệu của tướng Homer Smith là Jacksonville Bravo. Danh hiệu của Thủy
Quân Lục Chiến chung quanh tướng Smith
là Baritone. Danh hiệu của Không lực số 7 ở Thái Lan. là Blue Chip .Những
nhân viên dân chính trong tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn có danh hiệu bình dị là Embassy.
Có nhiều tàu chiến của Miền Nam như tàu vớt mìn,
tàu tuần, thuyền võ trang... theo dòng sông Cửu Long đi ra biển nên thường làm
nhiễu các làn sóng điện truyền tin,.
Một
sự lộn xộn khác về giờ giấc : Các trực thăng doThủy Quân Lục Chiến lái , muốn điều động họ thì phải dùng "giờ
L" (giờ đáp). Đó là giờ mà chiếc trực thăng nào đó phải có mặt ở bãi đáp. Đối với Không Lực thì "giờ L" là giờ cất cánh
.Công thức nầy đã được dùng trong cuộc di tản ở
Các
phi công lái trực thăng gặp phải nhiều khó khăn bất ngờ. Người ta đã thông báo
cho họ là thời tiết tốt, nhưng thời giờ làm hỏng hết. Từ 3 ngày qua, tầm nhìn
xa bị thu ngắn lại. Người ta đã dự kiến di tản ban ngày, nhưng thực tế thì lại
phải bay đêm, do đó đòi hỏi phải lanh lẹ, đối với chiến cụ.
Ít
nhất có 2 hành lang trên không phận Sài Gòn : hành lang
Các
phi công trực thăng đã được báo trước : từ đêm qua có nhiều trực thăng của Miền
- " Các tướng lãnh, đại tá, thiếu tá, đại
úy đã ra đi hết rồi. Tôi nghĩ là đến lượt các trung úy như chúng tôi cũng phải
làm như vậy thôi. "
Các trực thăng lượn vòng chung quanh hạm đội. Đôi khi, mặc cho người ta cho lệnh phải chờ, các phi công Việt
Theo
dự tính của những nhà soạn thảo kế hoạch
thì hầu hết các người tỵ nạn phải được bốc đi từ phi trường Tân Sơn Nhất . Lần
lần tướng Carey mới hiểu ra là cần phải giải tỏa ngay số người đang ở tòa đại
sứ từ 1000 đến 2000 người . Trước đó người
ta bảo đảm là con số nầy không quá 200
người . Chỉ cần có 3 hay 4 chiếc trực thăng nhẹ, loại UH.1E thuộc Hàng Không
Air
13 giờ 12 :
Tướng Không Quân Nguyễn cao Kỳ và trung tướng Lê
quang Trưởng, vốn đã về được Sài Gòn sau khi Đà Nẵng thất thủ, đã đáp trực thăng
xuống chiến hạm Midway. Ông Martin sau đó cũng đáp xuống chiến hạm
14 giờ:
Điện tín của ông Kissinger gởi cho ông Martin
xác nhận trao đổi cuối cùng giữa hai người qua điện thoại :
-"Chúng tôi đã nghiên cứu thỉnh cầu của ông
nhằm giữ lại một toán nhỏ ở tòa đại sứ .
Tổng
Thống nhấn mạnh là phải di tản hết. Thân mến"
15 giờ:
Tại phi trường, Thủy Quân Lục Chiến bảo vệ cho 3
bãi đáp được chỉnh đốn rất hoàn chỉnh trên sân dã cầu, sân quần vợt và trên một
bãi đậu xe trước dãy nhà phụ của Phòng Tùy viên Quân Lực. Có khoảng 3000 người
dân tỵ nạn. Thủy Quân Lục Chiến đã chia họ ra từng toán rất có phương pháp, mỗi
toán có từ 50 đến 70 người .
Thiếu tá William Melton đến phi trường với 3 trung đội của đại đội 3
tiểu đoàn 2 thuộc sư đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến
và các trực thăng vận tải đầu tiên lúc 15 giờ 6 phút. Họ bay theo con
sông Sài Gòn với cao độ 9000 bộ. Vì trên 10.000 bộ là người ta phải cần có dưỡng
khí. Binh sĩ nhìn xuống dòng sông đều
thấy có hằng trăm ghe , tàu,
chiến thuyền... đang đổ về phía biển. Chiếc trực thăng đầu tiên bay đi với hành
khách của mình. Các sự luân chuyển của trực thăng CH.46 và CH. 53 được tiến
hành rất tốt. Người ta rất lo ngại về những tin tức từ tòa đại sứ . Để giữ an
ninh cho tòa đại sứ, chỉ có một nhóm 44 Thủy Quân Lục Chiến mà thôi. Do đó tướng
Carey mới quyết định rút ra ngay 130 binh sĩ từ nhân số 840 binh sĩ đang
giữ an ninh tại phi trường
Thiếu
tá William Melton, sĩ quan lên từ hàng binh sĩ, 38 tuổi, 5 con, trên tay có xâm
hình một con bướm với đầu lâu, ở tiểu bang California, 20 năm thuộc binh chủng
Thủy Quân Lục Chiến, là một trong những quân nhân Mỹ đầu tiên đã đổ bộ lên Đà
Nẵng mười năm trước. Đối với ông,các chánh trị gia phải chịu trách nhiệm của cả "chuyện rối rắm nầy" Binh sĩ
của ông nằm ở vị trí gần các dãy nhà thuộc văn phòng của tướng Homer Smith. Hầu
hết họ là những người mới đặt chân lên Việt
- " Thiếu tá, đây là khẩu súng cá nhân
của tôi.... Việc gì đã xảy ra ? Không thể được, đây là chuyện có thật ư ? Cách đây
20 năm, lúc còn là thiếu úy, tôi đã đánh nhau trong vùng ngoại ô Hà Nội .
Phải trả lời cho ông ra sao đây ? ông đại tá nầy
mặc đồ dân sự trước khi leo lên một chiếc trực thăng. Thiếu tá Melton nhìn cảnh
binh sĩ của ông kiểm soát người tỵ nạn và hành lý của họ. Một nhóm các bà còn
trẻ nói với ông:
- Chúng tôi phải di hay sao ?
- Nấy chị có thân nhân ở Hoa Kỳ hay không ?
- Tôi có một "bạn trai" ở
Ông Melton nghĩ không biết tại sao các bà lại đem
chuyên đó ra hỏi ông ? Không còn nghi
ngờ gì nữa, ở đây có nhiều người muốn chạy trốn mà không thể ra đi như thế nầy được,
nhưng trong số những người phải ở lại tại chỗ, có một số lớn phải đến với chúng
tôi .
Việt
Với
một số Thủy Quân Lục Chiến ông Martin đi về tư thất của mình, lấy một vài hồ sơ
ra từ tủ sắt. Thủy Quân Lục Chiến đốt các hồ sơ nầy bằng một trái lựu đạn lửa.
Ông Martin trở lại tòa đại sứ , đi bộ qua tòa đại sứ Pháp. Ông Mérillon nói với
ông ta là CPLTCHMN không muốn gặp ông.
Tướng
Timmes đến gặp ông Dương văn Minh và ông ta luôn có cảm tưởng là ông Tổng Thống
tin là có thể bàn cãi, thương thảo với những người cộng sản . Tuy nhiên vào giờ
nầy ông ta đã mất hết ảo tưởng đó rồi. Cho đến cuối cùng, lịch sử của chiến
tranh thứ hai của Việt
15 giờ 30:
Để di tản những người Mỹ và những người Việt
- Ai tới trước thì được đi trước .
Tướng Carey nhận thấy là phương tiện di tản cũng
như an ninh không được đầy đủ. Ông hiện có một bãi đáp trên sân thượng, một bãi
khác trên bãi đậu xe vốn đã được dọn trống. Nếu số người quá đông ở trước cổng
tòa đại sứ mà vào được bên trong, thì công tác di tản sẽ bị lộn xộn ngay. Cũng
như người ta đã nói một cách lễ độ trong báo cáo quân sự là " các thông số
đã thay đổi". Các trực thăng sẽ tiếp tục làm con thoi trong đêm. Và đáp
trên nóc của tòa đại sứ là có nhiều nguy hiểm. Có cả ba người , ông Wolfgang Lehmann, đại tá John Madison thuộc Ban Liên
Hợp Quân sự 4 Bên, và một mục sư, ông Thomas Steddins, đang lọc và gom các người
tỵ nạn lại gần bãi đậu xe và hồ bơi. Trong các dãy nhà thì các người tỵ nạn,
các nhà ngoại giao, các nhà báo.. cũng không chịu ngồi yên.
Một vài viên chức uống rượu mạnh như wuýt-ky và
cỏ nhác, có một số lấy ra từ tủ lạnh ... y tế.. Các nhà ngoại giao Ba Tư thuuộc
Ủy Hội Giám Sát đến bắng cách đi băng qua tòa đại sứ Pháp. Họ không còn nhớ số
mật mã của họ nữa.
Điện thoại reo khắp nơi trong các từng lầu. Lại
có nhiều tin đồn được tung ra: các đoàn xe buýt đã bị tấn công trong thành phố;
còn quá nhiều chỗ trống trong các xà-lan và các tàu trên bến cảng. Lúc 16 giờ,
có từ năm đến sáu ngàn người tỵ nạn bao vây tòa đại sứ .Họ đứng dồn cứng khoảng
30 thước bề ngang, sát từ hàng rào với
những bao bị, những va ly, và những gói hàng ít nhiều được cột lại cẩn thận . Trong đám quá đông
nầy, nhà văn Duyên Anh và gia đình ông ta đến từ sở Thông Tin Hoa Kỳ . Ông ta
nhìn đồng bào đang hốt hoãng của mình , nhận biết được các tướng lãnh, nghị sĩ
và dân biểu, thấy các binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến Mỹ xô đẩy những người tỵ nạn đang
muốn leo qua rào, có đôi khi họ phải đánh nữa. Người ta cũng thấy có cả những
người Nhật và Đại Hàn.. Nếu là người da trắng thì họ có thể được người ta đưa
cao để qua khỏi rào. Các cảnh sát viên Việt
Khoảng vài chục ngàn người Việt đã được di tản. Nhiều người khác cũng sẽ
tự nguyên ra đi nhưng họ không thể nghĩ tới chuyện đó. Họ còn phải lo chuyên
chú vào việc làm. Trong nhiều khu, trẻ em vẫn tiếp tục chơi trên vĩa hè, ngoài đường,
còn có mấy cụ già ngồi tán gẫu.
16 giờ
30:
Những người có trách nhiệm trong cơ quan CIA
chợt thấy là 250 nhân viên người Việt của họ bị bỏ quên trong một trung tâm
tiếp vận ở xa, và khoảng 100 ở khách sạn Đức. Bảy chục thông dịch viên không
thể nào tới tòa đại sứ được . Một số trực thăng của hãng Air América không thể
bay lên được vì bình điện của trực thăng bị mất cắp, Người ta cũng không tìm được
xe buýt nữa. Do đó, các thông dịch viên và gia đình họ không có phương tiện và
cũng không còn có thì giờ để đến bến cảng được .
Ở về hướng Đông Bắc của Sài Gòn , bộ dội Bắc Việt
bắn một số hỏa tiễn tầm nhiệt SA.7 lên các phi cơ Phantom của Hoa Kỳ . Các phi
cơ nầy có bắn trả lại bằng hỏa tiễn.
Nói chung thì bộ đội Bắc Việt vẫn tiếp tục tuân
lệnh của tướng Văn tiến Dũng - không được đụng tới các phi cơ Hoa Kỳ.
17 giờ 15
Lúc nầy trời đã bắt đầu tối. Tướng Homer Smith ở
phi trường và tướng Carey ở Bộ Tư Lệnh Thủy Quân Lục Chiến ngoài biển, cùng xem
xét lại tình hình. Còn chừng 1300 người phải di tản từ Tân Sơn Nhất . Người ta
cần phải có 3 tiếng đồng hồ để đưa ra hết số người nầy, kể cả các toán Thủy
Quân Lục Chiến đang giữ an ninh. Trong vòng có một giờ, giá một mỹ kim từ 6000 đồng
vọt lên đến 7.000 đòng.
Tại tòa đại sứ công việc quá lờ mờ. Ông Martin
đã trả lời cho đề đốc Whitmire về con số chính xác như sau :
- " Còn đến từ 1.500 tới 2000 người "
Tướng Timmes lại điện thoại cho Tổng ThốngDương
văn Minh:
- " Cộng sản đã có trả lời gì cho Ngài chưa
? Liệu họ có sẵn sàng ngưng không bắn vào dinh Độc Lập lúc 18 giờ hay không ??
Không có câu trả lời nào.
17 giờ 30:
Tổng ThốngDương văn Minh lại gởi một phái đoàn đến
trại Davis , luật sư Trần ngọc Liễng, giáo sư Châu tâm Luân và linh mục Chân
Tín, một người tranh đấu cho trung lập, thuộc Dòng Chúa Cứu Thế. Sau buổi gặp phái đoàn nầy, người của
CPLTCHMN gởi một bức điện cho Bộ Tư Lệnh Bắc Việt:
- "Đồng chí Võ đông Giang đã tiếp những người
nầy. Một lần nữa đại tá đã nói rõ những điểm trong bản tuyên bố của chúng tôi
ngày 26 tháng 4, nghĩa là :xoá bỏ hoàn toàn chính phủ Sài Gòn . Sau cuộc nói
chuyện họ đã xin phép rời trại
Chung
quanh các dãy nhà của tướng Smith ở phi trường, một số binh sĩ Miền
Cũng
vào lúc đó ở trước tòa đại sứ Hoa Kỳ có các đám cháy bùng lên. Người ta tin là
một trái đạn pháo binh đã rơi trên đường. Sự thật là có một người Việt
Cạnh văn phòng của tướng Smith ở phi trường, có
những công chức Hoa Kỳ đang đốt hàng bó
người triệu mỹ kim.
Làn sóng người tỵ nạn tiếp tục tràn vào sát
tường của tòa đại sứ . Có nhiều người Mỹ khóc, trong số đó ông Polgar . Ông
không tìm thấy người Út, người tài xế của ông ở đâu.Các trực thăng của hãng Air
19 giờ:
Tại
Bộ Tư Lệnh Hải Quân trên bờ sông Sài Gòn, Đô Đốc Cang canh chừng cho các tàu
chiến của mình tuần tự ra đi. Ông nhận được diện thoại từ Tổng Thống Phủ. Người
ta muốn gặp đề đốc Than mưu trưởng Hải Quân ở nhà ông Dương văn Minh. Ông Minh
yêu cầu hộ tống đại tá Nguyễn hồng Đài, rể của ông, và tướng Mai hữu Xuân, người
đã có công trong việc đảo chánh ông Diệm năm 1963.
- Phần tôi, tôi không thể đi được
, ông Tổng Thống thở dài....
Tại
Tổng Thống Phủ, ông Dương văn Minh cứ ngồi chờ mãi tin tức của phái đoàn mà ông
đã gởi sang để gặp CPLTCHMN. Các cố vấn của ông và nhất là Thủ Tướng của
ông khuyên ông nên ra một bản tuyên bố đơn
phương. Phải đầu hàng vô điều kiện mà thôi. Ông Minh từ chối. Chuyện đó sẽ
không đi đến đâu cả, trên phương diện tinh thần, quân sự lẫn chánh trị .Đó là
tự mình cho người ta thấy chỗ yếu của mình.
Rại
tòa đại sứ Mỹ, các trực thăng được các đèn pha xe hơi rọi sáng, đã bốc đi mỗi
chuyến khoảng từ 60 đến 80 người tỵ nạn. Trong công tác chuyển vận, người Việt
Đoàn
tàu chiến của Đô Đốc Cang xuôi theo Sông Sài Gòn . Đứng trên boong tàu các sĩ
quan và binh sĩ đềy thấy trực thăng Hoa
Kỳ - hay của Việt
19 giờ 15:
Tất cả dãy nhà
trong phi trường đều không có điện : tai nạn hay bị phá hoại ?
- "Thôi
chúng ta đi, tướng Smith quyết định.
Ông ta sửa soạn đi
đến một trực thăng khi có một nhóm người tỵ nạn nữ vừa mới tới. Họ được phép
lên trực thăng của thiếu tướng Smith, còn thiếu tướng thì ông ta đợi một chiếc khác.
Người ta cần tăng
cường ở tòa đại sứ . Toán tăng cường được dự trù lấy ra từ những người của
thiếu tá Melton. Một trung đội của trung úy Jay Roach đi đến tòa đại sứ bằng
trực thăng. Thiếu tá Melton gọi người sĩ quan của ông :
- "Jay, anh
đến gặp đại tá, ông ấy sẽ hướng dẫn cho anh. Trong khi chờ đợi thì trung đội
của anh hãy tập họp lại."
Trung úy Jay đi
tìm đại tá, khi anh trở lại thì trung đội của anh đã bay đi rồi.
- " Vậy là
tôi làm sao đi tới tòa đại sứ đây ? trung úy la lên.
Không có một trực
thăng nào hết, làm trung uy Roach cáu lên. Có nhiều sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến
ấp u cơn nóng giận của mình một cách lạnh lùng, cố nén nó xuống ở phi trường,
cũng như ở tòa đại sứ .. và trên 4 chiến hạm của hạm đội ở ngoài biển : lộn xộn
như một nhà thổ. Những người dân chính không có một sự thận trọng nào. Mọi việc
bắt đầu quá trể. Trung úy Thủy Quân Lục Chiến
Alan Broussard đã tham dự cuộc di tản ở
- "Vậy thì tôi phải làm gì bây giờ ?
trung úy Roach hỏi
- "Làm sao anh có thể đi bộ lại tòa đại sứ được
? Thiếu tá Melton nhún vai trả lời
Ngoài khơi Vũng Tàu, đại úy Cyril Moyer và 52 Thủy Quân Lục Chiến người
của ông ta trong toán
- "Các anh sẽ giúp đỡ những người tỵ nạn,
nhưng không có sự quá thân mật. Các anh phải kính trọng người lớn tuổi. Các anh
phải giữ khoảng cách với họ. Các anh không được yêu thương tỏ tình với ai hết.
Các anh là Thủy Quân Lục Chiến , là một loại kem hảo hạng đó .
Các anh Thủy Quân Lục Chiến được huấn luyện để
phòng thủ cho chiếc Pionner Commander, trong trường hợp mà có các binh sĩ khác, bất cứ là của Bắc
Việt hay Miền
Đứng ngay cầu thang , có 2 binh sĩ kiểm soát những
người tỵ nạn bước lên tàu. Các Thủy Quân Lục Chiến nầy đều biết rõ các quân
lệnh. Cái gì được cái gì không được . Để giữ trật tự cho những người tỵ nạn nên
lúc nào cũng phải quan tâm đến vấn đề anh ninh. Phải báo cáo cho biết những ai nói được tiếng Anh và bất cứ người
tình nghi nào. Không được sờ vào đầu người tỵ nạn, không được chấp nhận bất cứ
một cử chỉ khiêu khích nào, không được để cho họ đánh nhau. Phải tịch thu hết
tất cả vũ khí và chất nổ.
Những người tỵ nạn đã được khám xét rồi mà các Thủy Quân Lục Chiến còn
khám phá ra những súng lục và dao găm. Hành khách được đưa đến các boong tàu.
Có người thì đến từ Vũng Tàu, có người thì đến từ rds . Có người thì đã đi qua
nhiều chặng nguy hiểm từ Đà Nẵng . hết tàu nầy đến tàu khác. Binh sĩ Thủy Quân
Lục Chiến thấy được trong đám đông tỵ nạn 3 bác sĩ, 7 người đầu bếp và một cấp
tướng trong quân chủng Hải Quân, Và một nghị sĩ. Hai người nầy không muốn nhận
bất cứ một trách vụ nào mặc dấu có yêu cầu của đại úy Moyer, người phải coi sóc
nhiều ngàn người tỵ nạn
Chung quanh chiếc Pionner Commander, có nhiều
chiếc tàu, thuyền đang đến, có một số đang cháy.
Người Mỹ cũng đang di tản lãnh sự quán cuối cùng Hoa Kỳ ở Cần Thơ. Lãnh
sự Francis McManara từ chối không nhận trực thăng . ông quyết định cho nhân
viên của ông đi tàu. Cơ quan tình báo xác nhận
là có nhiều toán Bắc Việt và Việt Cộng võ trang súng không giật đã có
mặt ở dọc theo sông. Ông Mc Namara tập trung người của ông trên bến cảng. Ông đội
một chiếc cát kết lớn có hàng chữ : "Hội Trưởng Hội Du Thuyền Cần Thơ". Khi đến cảng ông
không thấy tài công mà cũng không thấy nhân viên nào của CIA hết. Những người
nầy đã được trực thăng của Air
Khởi hành từ giữa trưa, đội chiến thuyền Mỹ bị
một số tàu tuần Việt
- " Tôi thấy là tất cả đều tốt hết rồi,
Thôi hãy tiếp tục đi đi, Chúc ông thượng lộ bình an và may mắn
Một
vài ngày trước đó., ông Mc Namara đã có giúp di tản gia đình của đại úy tuần duyên nầy
Trong một phút cảm động, còn hình ảnh được lưu
lại, một ông già đứng cạnh ông lãnh sự, đã nhận ra con trai của mình trong đội
tuần duyên. Họ ôm nhau:một người đi một người ở lại .
21 giờ :
Từ sân thượng của tòa đại sứ được chiếu sáng rực, người ta thấy xa xa có
những đường đạn chiếu sáng bắn thẳng lên trời,
và những đám cháy trong cơn bão, và nghe được những tiếng súng đại bác.
Các trực thăng lớn Cộng Hòa.53 đáp xuống sân, các trực thăng Cộng Hòa.46 nhỏ hơn
thì đáp ở sân thượng. Mội hành khách được phép mang theo một va ly hành trang.
Các phi công đội nón nhựa có dây nhợ
lòng thòng giống như nhân vật của sao
Hỏa trong tranh vẽ. Ông Allen Carter, vốn không di tản được nhân viên thuộc các
cơ quan Thông Tin của mình, cùng cô thơ ký tòa đại sứ Eva Kim và nhà báo George
Mc Arthur cả ba bước lên trực thăng. Bây giờ thì ở tòa đại sứ chỉ còn khoảng 12
nhân viên CIA. Họ đang còn
phải phá hủy thiết bị truyền tin cuối cùng
- " Người ta mất 4 triệu mỹ kim thiết bị,
ông Polgar nói khẽ trong lúc ông đi tới đi lui, súng mang choàng ngang trên
vai.
Ông FrankSnepp đi cùng với tướng Timmes trên một
trực thăng khác . Và họ bay đi.. Lúc bay trên không phận Sài Gòn ông Snepp thấy
một kho đạn đang nổ. Ông bàng hoàng khi thấy trên đường từ Xuân Lộc tới hàng
ngàn đèn pha chiếu sáng : đó là đoàn xe vận tải quân sự và chiến xa chiến thắng
của Bắc Việt.
22 giờ, giờ
Sài Gòn , 10 giờ giờ Hoa Thạnh Đốn :
Tại Ngũ
Giác Đài, người ta đang làm bản tổng kết về cuộc được tản. Ở Vũng Tàu, đã tiến
triển khả quan, ở Cần Thơ cũng vậy. Ông
Tổng Trưởng Quốc Phòng tưởng là ở Sài Gòn người ta đi đến một thảm họa. Trước
hết là người ta đã cho di tản quá nhiều người Việt
- "Được biết là vẫn còn khoảng 400 người Mỹ
trong tòa đại sứ . Ông phải bảo đảm là tất cả, tôi nhắc lại "là tất
cả" những người Mỹ phải được di tản "
Ông Martin trả lời ngay tức khắc một cách giận
dữ :
- " Có thể nào ông nói cho tôi biết làm
cách nào để tôi bắt buộc người Mỹ để họ bỏ những đứa con có nửa dòng máu Việt
Nam ? Hay Tổng Thống đã nghĩ gì khi ông cho lệnh tôi như thế ?"
Ông Martin than phiền : Đã hơn 50 phút rồi,
chúng tôi ở đây không có trực thăng CH.53. Chỉ có mỗi một chiếc CH.46."
Khi
nhận được công điện của Đô Đốc Whitemire, vốn muốn chấm dứt cuộc di tản vào lúc
23 giờ, giờ Sài Gòn và lại tiếp tục vào
hồi 8 giờ sáng ngày hôm sau, ông Martin viết thêm :
- " Tôi đã trả lời là tôi không muốn ở đây
thêm một đêm nữa. Cách đây 4 giờ tôi đã cho Đô Dốc Gayler ở
Có
nhiều công ty đã yêu cầu Bộ Ngoại Giao hay Nhà Trắng can thiệp cho các nhân
viên của họ ở Sài Gòn .
22 giờ:
Vẫn ông
Martin báo là bên cạnh ông có một vị linh mục, người đứng đầu các cơ quan viện
trợ công giáo Hoa Kỳ . Linh mục nầy không muốn đi nếu không có người Việt
Ông
Pierre Brochand đã yêu cầu ông Dương văn Minh qua điện thoại để cho ngưng các
cuộc chiến. Ông Minh trả lời là ông sẽ suy nghĩ lại.
Ông
Bronchard nhớ lại là dự trử xăng cho máy điện được chất đống dưới bức tường của
tòa đại sứ Mỹ. Ông đánh thức nhóm trẻ đang ở trong khuôn viên tòa đại sứ Pháp (
nơi các nhân viên đang tạm sống với con cái của họ cùng với một số gà vịt) :
- " Đi, đi lại chuyển hết các thùng dầu vào
giữa vườn giùm và lấy tấm bạt ướt đậy lại. Ông giục to lên.
Thế
là ông cùng nhóm trẻ lo dời các thùng dầu.
23 giờ 6 phút
Từ
Nhà Trắng, ông Don Rumsfeld báo cho ông Martin biết là ông phải lo cho 150 nhân
viên của hãng IBM đang ở đâu đó trong thành phố với gia đình họ.
- " Mặc họ muốn đi đâu thì đi ! ông Martin
nói,
22 giờ 30
phút
Ở phi
trường, Thủy Quân Lục Chiến đang phá hủy các dãy nhà và nhất là dụng cụ truyền
tin, hai trăm máy truyền tin , 60 máy điện toán, một trữ lượng lớn dữ kiện, một
đài dò tìm vệ tinh, một máy điện toán thật lớn của Quân đội Việt Nam được thiết
trí ở trong dãy nhà thuộc trách nhiệm của Quân đội Mỹ . Người ta cũng đốt một
số lớn hồ sơ. Tất cả đều diễn tiến đều rất tốt.
Viên sĩ quan được chỉ định lo việc nầy đã đặt chất nổ từ sáu ngày trước
. Và hôm nay là công việc cuối cùng. Người ta dùng ba thùng hỗn hợp nhiệt nhôm,
một trăm trái lựu đạn và khoảng 20 dụng cụ dẫn hỏa. Người ta đã cho ngòi nỗ
chậm, sau đó Thủy Quân Lục Chiến chạy ra sân quần vợt, ở đó trực thăng cuối
cùng đang chờ họ..
Đây
là nơi từ mười năm qua đã nổi lên một trung tâm, một trái tim, một bộ máy của
quyền lực quân sự Hoa Kỳ tại Đông Dương. Nơi đây một Tổng Tư Lệnh Hoa Kỳ, tướng
William Westmoreland, tiên liệu chiến thắng , đã công bố là "ánh sáng đã
ló dạng ở cuối đường hầm". Ánh sáng duy nhất ở cuối đường hầm của cuộc
chiến quá dài nầy, là đám cháy lớn nầy, đám cháy của các dãy nhà đang đổ sụp
xuống vì chất nổ, một đám cháy thật lâu với ngọn lửa trắng xanh của chất hóa
học trộn lẫn với bột nhôm.
23 giờ 45:
Bức điện tín từ ông Martin gởi về Nhà Trắng :
- "Từ sau diện tín sau cùng của tôi, mười
chín , tôi nhắc lại 19 chiếc CH-46 đã đến và đi. Tôi đã nói là tôi cần một số tương
đương với 30 chuyến CH.53. Tôi vẫn còn cần. Có thể cho tôi biết được không
?"
Mười lăm
phút sau, ông gởi cho tướng Gayler:
- " ... Không có gì trong vòng 20 phút
qua.. Hình như là tôi phải bước qua một phần của ngày 30 tháng 4 ở đây rồi, tôi mong đây chỉ là một phần thật
nhỏ. Chắc chắn là tôi không qua ngày 1 tháng 5 đâu."
Ông
Martin đã nói với ông Kissinger hơi khôi hài, là nếu tình hình trở nên xấu thì
ông ta sẽ phóng xuyên qua tường đến tòa đại sứ Pháp để xin tá túc với ông
Mérillon. Dĩ nhiên là ông sẽ không từ chối và ông Martin sẽ ngủ ở phòng bà
Mérillon, "nếu bà còn ở đó chớ không phải ở Ba Lê"
Các Thủy Quân Lục Chiến cuối cùng đã rời khỏi
Tân Sơn Nhất vào khoảng gần nửa đêm. Khi
họ phá hủy trung tâm truyền thông ở phi trường thì tòa đại sứ không còn có phương
tiện truyền tin hết sức tối tân nữa
Bà
Claudia Krich, một thành viên quắc-kơ, đã viết trong nhật ký vào buổi chiều
ngày 29. Vào trước nửa đêm, có hai người
ở cạnh bên nhà đã đến thăm bà :
- "Đó là 2 ông bà bác sĩ ở Đà Nẵng. Họ đã
trốn khỏi Đà Nẵng, quá sửng sờ khi nghe được lịch sử liên quan đến những người
cộng sản . Họ hỏi chúng tôi là chúng tôi có biết làm sao để họ có thể làm cho
trực thăng chú ý đến họ được ? Họ nghĩ cách vẽ 3 chữ SOS trên nóc nhà của họ.
Chúng tôi đã bảo họ đừng nên làm gì cả, vì nếu có một trực thăng đáp xuống đường
của chúng tôi thì có thể chúng tôi sẽ bị binh sĩ Việt
Đại tá
Hòa cho lệnh ngưng tất cả các chương trình truyền hình Việt
- " Ngày mai là tướng Dương văn Minh đầu
hàng. Chúng tôi không muốn thấy binh sĩ Dù trong thành phố Sài Gòn nữa.
Bộ Tư Lệnh Bắc Việt cho lệnh tất cả các pháo đội
của họ ngưng tác xạ. Tướng Dũng viết : "Vào nửa đêm ngày 29 tháng 4, tất
cả lực lượng tấn công của chúng tôi đã sẵn sàng tiến vào Sài Gòn . "Không
khí thật căng thẳng cũng như người ta đã đưa một lưỡi rìu thần diệu lên
vậy."
Thật
là những ngày mệt nhọc cho các phi công trực thăng ! Bộ máy quân sự tuyệt vời
của Hoa Kỳ vốn tiên liệu hết tất cả, đã bỏ sót một điểm : mỗi chiếc trực thăng
xử dụng đều có phi hành đoàn của nó. Không có một người nào nghĩ đến việc luân
phiên cho họ hay ít nhất cho 3 trong 8 người của phi hành đoàn, nên các phi
công và các xạ thủ súng máy đều làm việc suốt, không ngừng nghỉ.
Thiếu úy Richard Van de Geer thuộc "phi đoàn 217 hành quân đặc
biệt", ở căn cứ Nakhon Phanom tại Thái Lan. Anh ta đã tham gia vào cuộc di
tản ở
-" Người ta nói là tôi phải đưa trực thăng
của tôi... đến một hàng không mẫu hạm. Được rồi, đây không phải thật sự là một
chuyện bất ngờ, và chúng tôi biết là ở đó hạm đội 7 làm nhiều chuyện kỳ lạ lắm.
Nhưng tôi không biết là chiếc hàng không mẫu hạm quỉ đó nó neo ở 8oo cây số
ngoài khơi bờ biển Miền Nam Việt
không thấy thích chuyện đó chút nào."
Hằng
ngày, trung úy đều có tham dự vào một buổi thuyết trình về tin tức:
- " Chúng ta ở đây là để di tản các công
dân Hoa Kỳ . Những người Việt
( Xin đón xem tiếp chương XXII
:" 30 tháng tư : Hoa Sen Cuối Cùng "