Chương Bốn

Phần 2

 

       May quá, cuối cùng thì toán chuyên viên của tôi cũng đến được do chuyến phi cơ sắp đáp xuống Tân sơn Nhứt , và đó là chuyến phi cơ cuối cùng: anh Merlin, chuyên viên quay phim, người của toán Anderson và anh Mathurin, chuyên viên về âm thanh. Họ thuật lại cho chúng tôi biết là họ đã cố gắng thử đi CamBốt, nhưng chỗ nào họ cũng bị đuổi xuống. Những gì xảy ra ở đó người ta không muốn cho người nào được thấy hết. Ở đó bọn Khờ Me Đỏ làm chủ tình hình trong biển máu, phá hủy tất cả những gì gọi là của Tây Phương: các tủ lạnh, các xe hơi và mày điều hòa không khí , và cả các thư viện vốn có những tác phẩm vô giá. Ngay cả các bệnh viện mà họ tuyên bố là cũng không cần đến. Vì màu da của họ mà người Nga cũng bị đối xự còn tệ hại hơn người Pháp nữa. Cửa của tòa Đại sứ thì bị mở ra bằng súng không giật ba zô ca, và 7 nhà ngoại giao đang ở trong đó đều bị còng tay và dẫn hết đến tòa đại sứ Pháp, ở đây là nơi được nhốt tất cả người ngoại quốc. Ảnh hưởng của Trung Quốc rất mạnh ở đây và bọn Khờ Me Đỏ vui vẻ bắn hết những người không đồng chánh kiến.

Trong khi  hai anh Merlin và Mathurin bố trí dụng cụ thì tôi và anh Coutard đi đến toà Đại sứ Pháp dùng cơm trưa, và sau đó chúng tôi mới bắt đầu đi quay trưa nay.

Ông Đại sứ Mérillon thò đầu ra cửa nói với chúng tôi :

Xin lỗi nghe, tôi còn bận phải tiếp một người bạn, chỉ vài phút thôi, Ông ta đến để từ  giã tôi.”

Đó là tướng Trần văn Đôn. Mới vừa hôm qua đây ông còn là Phó Thủ Tướng, Tổng Trưởng Quốc Phòng, người rất năng nổ hoạt động và vẫn còn nghĩ là mình nếu không ngồi được ghế của ông Minh thì ít nhất cũng là ghế Thủ Tướng. Ông đã cật lực làm việc hôm qua để đẩy ông Trần văn Hương ra khỏi ghế Tổng Thống bằng cách gọt dũa tình hình quân sự như một tấm tranh bi thảm mà những gì ông trình bày thực ra cũng còn thấp hơn thật tế quá nhiều .   

Trong những ngày gần đây, ông đã là “người hành sử trung thành” đường lối chánh trị của nước Pháp, và trong nhiều tháng qua người ta đã nói với tôi ông như là người cố vấn được tin nghe nhất ở tòa đại sứ. Ông Đôn đẹp trai, sáng giá, với điệu bộ nhẹ nhàng và thong dong nầy, đã đến đây để lấy thông hành Pháp của ông ta. Phải chăng ông đã được sinh ra ở Bordeaux ? Trong cơn vội vàng của ông ta, ông quên không báo cho đại tá chánh văn phòng của mình biết, làm cho ông nầy sẽ phải tự sát . Có thể là ông ta sẽ làm lại một cuộc đời chánh trị mới bên bờ sông Garonne không chừng. Một khi màu da của ông ta bị quên đi thì người ta có cảm tưởng mạnh là mình đã gặp được một chánh trị gia người Pháp, kiểu của đệ ngũ Cộng Hòa cũng nên.

Ông Mérillon được tốt nghiệp cùng khóa và cùng trường Quốc gia Hành chánh E.N.A. với Tổng Thống Pháp, với một hạng cao hơn, nhưng ông không phải là dân bá nghệ. Ông thích nghề ngoại giao vì truyền thống của gia đình (cha ông là tổng lãnh sự ở Tanger), nên ông bắt đầu đi vào nghề ở La Mã. Ông là người được dành cho các cuộc thương lượng khó khăn. Lúc ở Jordanie ông nổi danh với các cuộc điều đình lần lượt với những người Palestine d’Habache để họ không cho nổ khách sạn Jordan, trong đó vốn đang cầm giữ các nhà báo làm con tin, và sau đó lại điều đình với người Bédouins của vua Hussein để họ bỏ ý định lấy tòa đại sứ Pháp làm mục tiêu. Sau hết ông lại giúp giải thoát các hành khách của những chiếc phi cơ bị bọn đặc công khủng bố bắt đi sai lộ trình.

Nhỏ người, sốt sắng, năng nổ, rất sáng trong mọi trao đổi chuyện trò, học lực rất cao, bây giờ thì ông lại kẹt với vùng Viễn Tây, ở đó có quá nhiều ngành nghề, mà cũng có không ít một số khác bị mai một.

Hơn nữa , là một cựu sinh viên quốc gia hành chánh, ông nói cho chúng tôi nghe ý kiến của ông về nhiệm vụ của một ông đại sứ. Ông gọi đó là “nghĩa vụ học” của nghề nghiệp. Ông nghĩ là ông nắm được một số quy luật. Nhưng ông có biết đâu rằng ông phải bị lệ thuộc vào một số lớn lệnh lạc của Ba Lê mà ở đó không ai hiểu gì về tình hình hết. Một ông cựu sinh viên bị kẹt cứng với tình trạng mộng du của người Việt Nam làm ông tự chống đỡ không nổi, bởi vì ông vốn được đào tạo trong kỷ luật, vốn biến người công chức thành một con người quá “lý thuyết”, đã học qua sách vở và ít khi so sánh được giữa những sự hiểu biết đó với thực tế ờ ngoài đới. Cái học của một sinh viên sẽ giúp phân tách tình hình rất hay nếu các yếu tố mà người ta cung cấp cho họ phải rất là chính xác, và với điều kiện là họ không bị kẹt với “con thú mà bản chất vốn thất thường, hay thay đổi” mà bất cứ người công chức tốt thế nào cũng phải ghê tởm, một con người mà tai biến lớn đôi khi có thể biến họ trở lại thành một con thú rừng. Hơn nữa ờ Sài Gòn tất cả đều không đúng, tất cả đều là ảo ảnh, còn sự thật thì là quá nhiều . mọi người đều nói dối vì họ có nhu cầu phải tin vào những sự nói dối trá của chính mình. Muốn thấy lại được chuyện đó thí phải có đươc những tin sơ khởi và phài sàn lọc cẩn thận, mà phải từ những nguồn tin đáng tin cậy, từ những đảng cộng sản đang chinh phục thế giới hay từ các đảng nhỏ ở Á Châu, suy sụp, đồi bại, đang có hằng ngàn phương án mà vẫn không quên tý nào về những tiêu lệnh mà người ta đã ban cho họ, và phải theo sát các biến cố mà không ngần ngại phải chơi tất cả các lá bài gian lận của Đông Phương một cách thích thú, và nhất là phải bất chấp hết tất cả mọi “nghĩa vụ học”.       

Là một sản phẩm hoàn toàn của ngành quan lại Pháp liệu ông J. F. Mérillon có chống lại nổi sự thử thách về ngày tàn của thành phố Sài Gòn hay không ?  

Theo tôi thì gần như đây là một loại trắc nghiệm. Trường Quốc gia Hành chánh (E.N.A.) trong khi đào tạo các nhà ngoại giao đầu thì lớn mà ruột thì không có , đã không rút ra được những đức tính tốt của họ, mà nếu thiếu thì họ phải chịu bó tay không làm gì được hết, khi đụng phải những trường hợp khó khăn: đó là cả một sự điên rồ có tính cách mạo hiểm và phù phiếm.

Toán của chúng tôi đã giúp cho bà Lý thị Dung, một người biết nhiều thứ tiếng, giáo sư đại học và sau nầy chúng tôi mới biết bà quản lý rất nhiều việc quan trọng. Bọn cộng sản  hiện đang ở cách thành phố chừng 5 cây số trên xa lộ Biên Hòa, và một trong các toán đặc công của họ đã len lỏi vào đượcTân Cảng, một giang cảng mới do người Mỹ xây dựng.

Trong lúc anh Coutard chạy đến Tân Cảng thì tôi chạy đến kiếm ông Minh Dương để có thể phỏng vấn được ông ta. Các biến cố đã xảy ra quá nhanh đến độ tôi không thể cho ông ta vào ống kính của tôi được.

Tại dinh Độc Lập, đang có một sự chuyển giao quyền hành với tất cả lễ nghi của loại biến cố lịch sử nầy. Với một giọng run run, ông già Trần văn Hương đứng lên đọc một bài diễn văn, sau đó rời khỏi ghế ngồi và bước xuống tam cấp, bị vấp phải một nấc thang. Ông Minh nói vài lời xong ngồi xuống ghế đó.

Tôi trở về khách sạn Continental. Anh Coutard thuật lại cho tôi nghe là họ đã quay được cảnh các sinh viên trường sĩ quan Dalat đang ra tuyến đầu, và đó là lực lượng trừ bị cuối cùng của QLVNCH. Tôi cũng đã biết qua chuyện nầy vào năm 1940, khi tôi được gởi đi phòng thủ một cây cầu trên sông Loire cùng với các sinh viên sĩ quan khác, nhưng tôi không bao giờ phòng thủ được vì quân Đức đã đi ở phía Bắc và phía Nam của vị trí mà chúng tôi phải phòng thủ. Tôi cũng thấy sợ như các bạn tôi, nhưng chúng tôi đã có được quyết tâm chiến đấu, giống như các bạn tôi đang thi hành ở Saumur vậy.

Anh Coutard đã hỏi một cách hơi cộc cằn để cố che dấu sự mềm yếu của mình:

“Các anh em muốn sẽ đi đến chỗ tự sát phải không ?  

“-Phải, một anh chuẩn úy đã trả lời

“ Tại sao vậy ? Đã thua rồi.

“Chúng tôi không muốn cộng sản .”

Và những anh chàng sinh viên sĩ quan trẻ của trường Dalat trong bộ quân phục mới thật đẹp, với những đôi giầy đánh xi thật bóng, đã bình tĩnh đi đến chỗ chết một ách rất oai hùng. Họ chỉ thiếu có chùm lông đà điểu trên mũ và những đôi găng tay trắng mà thôi.

Chúng tôi đang ở trên sân thượng của khách sạn Continental, đang bối rối trước tầm rộng lớn và diễn tiến quá nhanh của sự thảm bại nầy. Vì chúng tôi là những người đã tự thấy mình quá gần gủi với những người thất trận như chúng tôi khi xưa, hơn là những người đã đánh thắng họ. Phải chăng vì chúng tôi là những người đã nếm quá nhiều vị cay đắng của sự thất trận hay phải chăng chúng tôi đã thấy một bộ mặt lo âu qua vài sự chiến thắng ?

Bây giờ là 18 giờ 30 chiều. Cơn mưa nặng hột của vùng nhiệt đới đã rửa sạch các con đường. Dưới ánh sáng vàng nhạt của bầu trời, nhựa đường chiếu sáng lên trong khi các giọt mưa cuối cùng rơi nặng hột trên hè phố. Có những tia chớp và nghe có tiếng sấm sét ? Không , không phải, lần nầy thì rõ ràng là tiếng nổ của rốc kết, và tiếng rít của đạn đi. Có tiếng còi hụ báo động. Chúng tôi chung xuống gầm bàn trước khi biết là cuộc tấn công không nhằm vào khách sạn mà nhằm vào dinh Độc Lập. Có 3 chiếc phản lực phóng pháo cơ, tất cả đều là A.37, mang cờ Việt Nam Cộng Hòa , đã bắn vào Dinh của Tổng Thống  và lúc trở ra lại bỏ bom vào sân bay Tân sơn Nhứt . Từ các nóc nhà, từ trên đường, tất cả những gì có súng đều thi nhau nhả đạn. Và do đó đã đưa đến sự hoảng loạn khắp nơi.

Vào lúc đó chúng tôi tưởng rằng đây là một cuộc đảo chánh của tướng Nguyễn cao Kỳ , một phi vụ “tự sát” cuối cùng của các phi công của ông ta. Thấy là tất cả đều đã mất hết rồi nên họ quyết định phải phá sập dinh Độc Lập trước khi tướng Minh Dương đầu hàng vô điều kiện, đồng thời ngăn chận người Mỹ không cho họ tiếp tục cuộc di tản một cách êm đẹp.

Nhưng sự thật lại khác hẳn.

Cả 3 chiếc phi cơ và phi công kia đều xuất phát từ Phan Rang. Họ đã đầu hàng cộng sản . Một trong 3 phi công là trung úy Nguyễn thành Trung, người đã từng liệng bom xuống dinh Độc Lập lúc ông Thiệu còn là Tổng Thống. Anh ta được cộng sản thăng cấp đại úy. Điều nầy có nghĩa là cộng sản không còn muốn gì ở chính phủ của ông Minh Dương nữa, cũng nhhư của ông Hương hay ông Thiệu, và họ không có một ý muốn nào về chuyện thương lượng với bất cứ người nào cả. Đài phát thanh Việt Cộng không ngớt lập đi lập lại là không có vấn đề gì phải thỏa hiệp với ông Minh Dương và tập đoàn hiếu chiến của ông nầy, những kẻ chỉ ước mơ kéo dài sự thống trị của người Mỹ.

Khi người ta muốn giết con chó đi thì người ta cho nó là có ghẻ lở ! 

Ông Minh Dương và những người của ông là Vũ văn Mẫu một người Phật Giáo và ông Nguyễn văn Huyền, người Công Giáo, đã làm tất cả những gì họ có thể làm được để cố thỏa mãn “người của phía bên kia”

Họ đã đòi người Mỹ phải rời khỏi lãnh thổ Miền Nam Việt Nam càng nhanh càng tốt và bằng mọi cách phải tăng nhanh tiến độ di tản của họ. Người ta chưa được biết là tòa đại sứ Hoa Kỳ phải đóng cửa hoàn toàn hay vẫn  còn làm việc với một số nhân viên tối thiểu như Đại sứ Graham Martin đã mong muốn. Ông ta từ chối không muốn ra đi vội vã với lá cờ Mỹ cuốn trong tay, như ông bạn đồng nghiệp ở Phnom Penh.

Những tin tức về sự tan vỡ đến với chúng tôi từ khắp nơi. Ông Minh Dương không làm sao nắm được ông Tổng Tham Mưu Trưởng tuy là ông có nhu cầu rất khẩn thiết, phải chăng vì ông muốn ra lệnh cho quân đội, cố gắng tập họp các đơn vị lại để tiếp tục chiến đấu hay là để chuẩn bị ý định cho một cuộc ngừng bắn ?  

Tướng Cao văn Viên và cả ông Phó của ông cùng đã ra đi với người Mỹ . Chỉ còn lại ông Minh nhỏ và sau đó là ông tướng Vĩnh Lộc, ông nầy đã có một tuyên bố ngon lành trên đài phát thanh Sài Gòn, đại ý :

Hỡi anh em binh sỉ ! Các anh đừng có hành động chạy như chuột, giống như Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu”,

Để rồi ông cũng bỏ chạy sau đó. Một chiếc phi cơ D.C.6 thuộc Hàng Không Việt Nam đã cất cánh không phép, chở đầy người tỵ nạn, đã đáp xuống phi trường ờ Phi luật Tân. Một chiếc tàu Mỹ di tản nhân viên của tòa lãnh sự Hoa Kỳ từ Cần Thơ đã bị trực thăng của Miền Nam Việt Nam tấn công trên sông. Không biết tức giận vì đã bị bỏ rơi hay chỉ đơn giãn là một hành động bắn phá ?

Ông Minh Dương cuối cùng đã có được một vài biện pháp. Ông quyết định cho thả tù chánh trị, cho tái xuất bản 3 tờ báo mà chánh quyền trước đã cho đình bản, và cho lệnh thiết quân luật 35 giờ, từ 8 giờ tối nay cho tới 7 giờ sáng ngày mốt, để giúp cho Hoa Kỳ tiếp tục cuộc hành quân di tản. Bằng cách chấp thuận gia hạn thêm 24 tiếng đồng hồ để cho họ rời khỏi Miền Nam Việt Nam, ông chỉ là chuyển cho Mỹ một đòi hỏi của người cộng sản  mà thôi.

Một ông đại sứ tên là Dean Brown được chỉ định để phối hợp tất cả cuộc hành quân di tản. Có tất cả 5 chiếc hàng không mẫu hạm ngoài khơi Việt Nam , trong đó có chiếc Hancock và chiếc Okinawa là có loại trực thăng nặng, và 46 chiếc chiến hạm khác, từ những đơn vị nhẹ dùng để đổ bộ cho đến những chiếc được trang bị hỏa tiễn, và 37.000 quân nhân trong đó có 4000 Thủy quân lục chiến … tất cả đều trong tư thế sẵn sàng để bảo vệ cuộc hành quân di tản. Ngoài ra còn có hàng trăm chiếc phản lực cơ Phantom và các trực thăng võ trang Cobra. Cuộc hành quân mang tên là “Talon Vise”.

Cuộc dội bom ở Tân sơn Nhứt đã phá hủy được một chiếc vận tải cơ C. 130 của Hoa Kỳ. Và chắc chắn là các đại bác của quân đội Bắc Việt đang ở trong tầm tác xạ hữu hiệu đối với phi trường, dĩ nhiên họ muốn ngăn chận phi cơ lên xuống lúc nào cũng được , khi mà họ thấy có nhu cầu, nhưng họ cũng biết là Hoa Kỳ không tha thứ bất cứ hành động nào có thể cản trở sự ra đi của người Mỹ - còn khoảng hơn 1000 -, và sự di tản của người Việt Nam mà con số ước lượng quá cao từ 70.000 đến 140.000 người .    

Dân chúng đã bắt đầu treo cờ Pháp khắp mọi nơi. Trên khách sạn Continental cũng đã  phất phơ một lá cờ tam tài thật to.

Chung quanh khách sạn các cô gái ăn sương hoạt động rất náo nhiệt. Họ phải tìm cho được một người bạn trai trước 8 giờ chiều nay. Còn 30 phút nũa là đến giờ thiết quân luật thì giá cả của mấy cô nàng tụt nhanh xuống. Còn vài phút nữa là đến giờ quy định thì người ta có thể tìm được một cô bạn gái mà không phải tốn tiền. Chiều ngày 29 tháng 4 thì có nhiều cô có thể sẽ sẵn sàng trả tiền để được nước Pháp bảo vệ và họ sẽ núp kỹ sau các bức tường chắc chắn của khách sạn. Người ta đang chờ đợi một cuộc dội bom….

Đến 6 giờ chiều thì Hoa Kỳ tin chắc là đã có khả năng đạt được một thỏa hiệp về cuộc hành quân di tản, giữa ông Minh Dương và các đại diện của CPLTCHMN đang nằm trong trại Davis của họ ở bên trong phi trường Tân sơn Nhứt. Vì chính người Mỹ vẫn đinh ninh là ông Minh Dương lúc nào cũng có liên lạc với những người cộng sản .

Nhưng họ hết sức sững sờ khi họ nhận thấy là không có chuyện đó. Có hai sự kiện để chứng minh: chuyện các phi cơ dưới sự điều khiển của Bắc Việt đã đến dội bom xuống Dinh Độc Lập, và sự từ chối của CPLTCHMN không chịu tiếp một phái đoàn thuộc chính phủ của ông Minh Dương do một người Công Giáo là ông Nguyễn văn Huyền hướng dẫn.. Phái đoàn nầy đã đến để yêu cầu “hòa bình”, sẳn sàng chấp nhận tất cả mọi điều kiện. Nhưng các điều kiện nầy chỉ được nêu lên ở Paris (Pháp), trong khi tại Sài Gòn thì người ta từ chối không muốn đối thoại.

Ờ chợ Bến Thành người ta báo cho tôi biết là còn có một tiệm hút còn mở cửa. Theo luận điệu cộng sản thì bọn “thực dân” đã để lại 3 tật xấu. Đó là  : thuốc phiện (sản phẩm chỉ do người cộng sản cung cấp), chuyện mua hương bán phấn (cũng chính người cộng sản  đã dùng đa số bọn gái điếm đề cung cấp tin tức tình báo cho họ), và chợ đen (vốn là nơi mà mọi người kể cả cộng sản đã đến lấy hàng tiếp tế). Giữa những người làm chủ đất nước , họ không còn có gì hơn đề nói.

Tiệm hút chỉ là một loại phòng nhỏ hẹp bằng cây, giống như một lồng nuôi chim bồ câu ở trên nóc nhà. đó có một vài người ốm khô như cành nho biết được , đến nằm khèo trên gối gỗ hay trên những lon đồ hộp cũ để hút bằng những điếu tre . Thật là bẩn thỉu đến thảm hại và đã quá lỗi thời rồi ! Tôi có hỏi một người, không biết là chủ hay là bồi tiêm thuốc :

“Chuyện gì sẽ xảy ra khi bọn cộng sản tới đây ?

Anh ta trả lời cho tôi bằng tiếp Pháp rất trôi chảy:

“ Cho đến giờ nấy tất cả đều tốt.

“ Chuyện gì vậy ?

“Ông chủ ơi, tất cả mọi người đều bằng lòng. Người Pháp đã đổ bộ ở Vũng Tàu.

Đối với anh ta, một người đã  sống trong mộng ảo của chất ma túy thì mọi việc đều là bình thường. Người Mỹ đã ra đi rồi và được biết là người Việt Nam hình như không thể tự sống một mình được, lúc nào cũng phải có người lo cho họ, cùng đánh giặc với họ hay đánh thay cho họ… thì anh ta đinh ninh là người Pháp phải trở lại thôi.

Anh ta giải thích là anh ta vốn là một cựu trung sỉ nhất của Pháp và yêu cầu tôi giúp anh ta tìm một việc làm như thông dịch viên chẳng hạn. Tôi hứa với anh ta những gì anh ta muốn vì tôi không muốn phá rầy giấc mơ của anh ta.

Tôi vội vàng trở lại khách sạn Continental. Bất thình lình tôi có cảm tưởng là không có chuyện gì thật hết, là tôi đang thật sự sống trong mộng , ở đó lẫn lộn cả những điều bi thảm, phi lý, và kỳ cục: ông Đại sứ Pháp và “nghĩa vụ học” của ông ta, ông Minh Dương người muốn nắm lấy quyền hành chỉ để thương thảo với bọn cộng sản, nhận những quả rốc kết coi như món quà đăng quang, và ông Đại sứ Martin, người đã cố gắng trì hoãn tối đa sự ra đi của các công dân của mình bởi vì ông từ chối không công nhận sự thất trận của Hoa Kỳ và ông ta dấu mặt như một con đà điểu chui đầu vào cát.

Tân sơn Nhứt đang cháy, Biên Hòa đã thất thủ. Có nhiều ngọn lửa soi sáng trời về đêm.

Đúng vào lúc 10 giờ 51 đêm lệnh chánh thức được ban hành để bắt đầu cuộc hành quân di tản bằng trực thăng. Tên mật mã là “Sự Chọn Lựa Bốn” ( “Option IV” ).

Tại Hoa Kỳ, Tổng Trưởng Quốc Phòng Schlesinger trong dịp nầy đã khen ngợi quân đội Hoa Kỳ: “Trên chiến địa các anh đã từng là kẻ chiến thắng. Các anh rời bỏ lãnh thổ nầy trong danh dự . Miền Nam Việt Nam đã không chống đở nổi với những áp lực mạnh từ bên ngoài, nhưng lực lượng Hoa Kỳ đã từng giúp cho họ một cơ may vừa phải để sống còn…”

Về phần mình, ông Kissinger đã tuyên bố:

“Chúng tôi vẫn giữ hy vọng là người Bắc Việt sẽ không tìm một giải pháp chỉ bằng phương tiện quân sự , họ đổi thái độ và chúng tôi chưa được biết tại sao..”

Tất cả mọi người do đó đã trở thành điên rồ hết rồi! 

Ai sẽ là người Việt Nam cuối cùng chịu chết cho lá cờ vàng ba sọc đỏ của Việt Nam Cộng Hòa ? cho ngôi sao vàng của cái gọi là CPLTCHMN hay cho lá cờ đỏ của Hà Nội?

Ba triệu người đã chết trong trận chiến tranh nầy. Chết cho ai đây? Chết cho cái gì đây? Để giúp cho người ta bước tới được màn vũ điệu ba lê siêu thực tế nầy ?

Người cộng sản đã rất ngạc nhiên về nhịp độ tiến quân và về sự chiến thắng của họ. Họ không hề có một chuẩn bị nào hết và chiếm một thành phố đông dân, thù địch và xa lạ như Sài Gòn , vốn đã làm cho họ sợ hãi.  Họ thích “đập nát” (nguyên bản : casser) thành phố nầy với ý định trừng phạt nó …. Đối với những nguyên tắc đó, thành phố nầy là một biểu hiện của thói hư tật xấu và của sự hợp tác với ngoại bang.

Người ta nói là có nhiều chuyện tàn ác xảy ra ở phía Vũng Tàu, trong các trại tỵ nạn được coi như mục tiêu của bom đạn.

Có nhiều chiếc tàu chở đầy người chạy trốn đã bị tàu tuần của Thủy quân lục chiến chận khám. Binh sĩ đã lấy hết vàng bạc tư trang, còn hãm hiếp các cô gái nữa. Và sau đó họ làm cho tàu chìm, bắn chết những người còn sống sót đang cố lội vào bờ, tàn sát cả trẻ con.

Có những kẻ cướp người Thái Lan xuất hiện ngoài khơi, chận bắt các tàu dân tỵ nạn và cướp hết tài sản .

Ông Bà N. rất giàu có với nghề buôn bán âu dược, họ đã có thông hành và giấy phép xuất cảnh, lại có giữ được chỗ trên chuyến bay chót của Hàng Không Pháp rồi, nhưng lại không đi được vì con gái của họ đang thi tú tài.

“Thế nào rồi việc sẽ đến cũng phải đến vào đêm nay thôi, một người bạn đồng nghiệp đã nói với tôi như thế, anh nầy cũng không biết gì hơn tôi.

Phi cơ bay ầm ỉ suốt cả đêm trên không phận Sài Gòn , có khi bay thật thấp, Họ nối tiếp nhau cất cánh, người ta nghĩ như một đoàn các toa xe lửa vậy và ở dưới đất chúng tôi phải bịt tai lại.

Thành phố thật sự đang bắt đầu hấp hối rồi. Còn bao nhiêu ngày nữa, bao nhiêu giờ nữa nó mới sẽ thật sự sẽ chết đây ???

---------------------------

               ( Xin đón xem tiếp Chương Năm : “NGÀY THỨ BA 29 THÁNG TƯ” )


   Trở về trang Mục Lục     Chương 5

1